Flash trong máy ảnh
Đèn tốc độ - Speedlight (Speedlite) là đèn chớp đồng bộ điện tử
dùng cho các loại máy ảnh điện tử có khả năng lấy nét tự động. Ngoài
các chức năng chung của đèn flash, đèn tốc độ còn có thêm bộ vi xử lý
nhỏ (microcomputer) để tạo thêm nhiều chức năng khác có thể dùng chung
với các ảnh DSLR hiện đại.
GN – Guide Number - Chỉ số công suất
Năng lực của đèn được đánh giá qua chỉ số hướng dẫn GN, cho biết cự ly ăn đèn ứng với giá trị khẩu độ và ISO cho trước.
Chỉ số GN cơ sở được ghi trên catalogue của đèn cho biết cụ ly phủ sáng
(flash range) xa nhất của flash là bao nhiêu mét (hoặc feet) ứng với độ
nhạy sáng ISO tối ưu (thường là ISO=100), với góc mở tiêu cự 35mm trên
máy film (hoặc máy ảnh FX), trong môi trường truyền dẫn ánh sáng tốt
nhất (trên catalogue của flash sẽ ghi cụ thể các thông số) . Với GN cơ
sở ghi trên catalogue, nếu D là cự ly phủ sáng ta có:
D = GN/F-Number
Nếu nhìn công thức trên ta sẽ thấy nếu khẩu độ càng mở thì đoạn đi của flash tương ứng GN càng dài.
Lưu ý: Mỗi một lần tăng F-Stop hoặc ISO lên 1 nấc thì GN sẽ tăng lên
1.41 lần. Ví dụ đèn Canon Flash 550EX có GN = 55, nếu tăng từ ISO=100
lên ISO=200, ta sẽ có GN= 55 x 1.41 = 78. Cự ly phủ sáng là chiều dài của đường đi tia sáng flash không phải là khoảng cách từ máy đến chủ thể.
Nếu đánh đèn phản xạ trần, đường đi của tia sáng phải tính là đoạn
đường từ flash đến trần và từ trần đến chủ thể (phải trừ hao thêm khả
năng phản sáng của trần nữa).
E-TTL (I –TTL) hay là Pre-flash của sony - Cân bằng phủ sáng tự động
E-TTL - Evaluative Through The lens (hay I-TTL - Intelligent Through The
Lens): ước lượng ánh sáng đèn qua ống kính. Hệ thống này không dùng bộ
phận cảm biến flash sensor trên đèn để đo sáng mà nó dùng một nguồn
sáng thứ cấp có công suất thấp và xung ngắn gọi là Pre-flash phát ra
trước nguồn sáng chính, quang kế trên máy ảnh sẽ phân tích và tổng hợp
giữa ánh sáng môi trường và ánh sáng do nguồn sáng thứ cấp này phát ra
để quyết định công suất cho đèn. Nói đơn giản hơn, đèn sẽ phát ra nguồn
sáng “nháp” và máy ảnh dùng nguồn sáng này làm cơ sở quyết định công
suất cho nguồn sáng chính. Quá trình đo sáng trong chế độ này tương tự
chế độ đo sáng ma trận trên máy ảnh, nguồn sáng Pre-flash sẽ đánh sáng
mọi vật thể trong khung ảnh, máy ghi nhận, phân tích và đưa ra kết quả
về công suất để cân bằng phủ sáng cho đèn
Với E-TTL
(I-TTL), flash phát sáng "nháp" trước để ước lượng công suất, sau đó
đèn chính thức "nổ" để cung cấp nguồn sáng chính xác.
Synchronized Flash Speed - Tốc độ ăn đèn
Tốc độ ăn đèn là thời gian khi chủ thể nhận được ánh sáng từ đèn, khi
film (hoặc cảm biến) đã lộ sáng hoàn toàn cho đến lúc đèn ngừng phát
sáng. Khi thiết kế đèn flash, các kỹ sư đã tính toán “thời điểm” đèn
phát sáng tương thích với “thời điểm” màn trập đóng mở.
Maximun Flash Sync Shutter Speed
Tốc độ đóng màn trập tối đa đồng bộ với flash là tốc màn trập ở mức tốc
độ cao nhất có thể để đồng bộ hoá với flash. Đối với các DSLR hiện đại
thường là 1/180s hoặc 1/250s.
Normal Sync – Đồng bộ đèn bình thường.
Normal Sync là tốc độ ăn đèn bình thường, nó bao gồm từ tốc độ ăn đèn
tối đa về tới tốc độ chậm nhất của máy ảnh, và B (là rất nhiều tốc độ).
Trong các D-SLR luôn tồn tại 2 màn trập đóng và mở với thời gian chính
xác. Khi nhấn nút chụp, màn trập thứ nhất sẽ mở để lộ cảm biến (hoặc
phim) và sau đó màn trập thứ hai sẽ đóng lại kết thúc quá trình phơi
sáng. Khoảng giữa thời gian "đóng và mở" gọi là thời gian phơi sáng
có thể kéo dài tới 30s (có thể lâu hơn) hoặc nhanh tới 1/8000s hoặc
1/10.000s tuỳ theo DSLR. Có tên gọi khác cho màn trập thứ nhất và thứ
hai (first curtain/second curtain) là màn trập trước và màn trập sau
(front/rear curtain)
Khi đang ở chế độ Normal Sync. Với tốc độ chụp chuẩn, "màn trập thứ nhất mở, đèn flash nháy, màn trập đóng lại".
Khi vượt quá tốc độ ăn đèn tối đa, màn trập thứ nhất chưa mở ra toàn
phần, thì màn trập thứ hai đã bắt đầu di chuyển, và khi màn trập thứ
nhất vừa đến điểm cuối, thì flash nháy để ghi nhận nguồn sáng và màn
trập thứ hai đóng lại, tạo thành “một khe lộ sáng” khoảng phơi sáng ở
giữa hai màn trập. Đèn flash phát sáng trong quá trình đóng màn trập
nhanh này không đủ thời gian để phơi sáng toàn bộ khung ảnh mà chỉ kịp
đủ để rọi sáng một phần khung ảnh.
Tốc độ màn
trập đóng nhanh, flash nháy nhanh khi hai màn trập đang di chuyển,
flash không đủ thời gian rọi sáng toàn bộ khung ảnh
Tốc độ ăn đèn tối đa của máy này là 1/180s, khi vượt lên đến 1/200s,
thì bắt đầu hơi bị tối một chút bên góc phải khung hình, và hiện tượng bị che sẽ càng nhiều hơn, khi tốc độ càng tăng cao hơn.
Ảnh minh hoạ: neilvn
Auto FP High-Speed Sync - Đồng bộ đèn tốc độ cao tự động
Chế độ này cho phép tốc độ màn trập đóng nhanh hơn "Tốc độ đồng bộ đèn
tối đa - Maximun Flash Sync Shutter Speed". Với chế độ Auto FP
High-Speed Sync cho phép đèn đánh đồng bộ với máy ảnh lên đến 1/4000s
phù hợp cho những cảnh chụp cần tốc độ màn trập đóng nhanh như
chụp ảnh trong môi trường ánh sáng chói chang cần tăng tối đa tốc độ màn
trập, hoặc như các cảnh chụp cần bắt đứng hình ảnh di chuyển. Trong
chế độ Auto FP High-Speed Sync, đèn flash sẽ nháy liên tục trong quá
trình phơi sáng với chu kỳ 50.000Hz, như vậy ảnh sẽ được flash rọi sáng
toàn phần.
Trong chế độ Auto FP High-Speed Sync, đèn flash sẽ nháy liên tục
Lưu ý thêm: khi tốc độ ăn đèn càng cao thì hiệu suất GN càng giảm.
Ví dụ đối với đèn Canon 380EX, ở tốc độ màn trập là 1/500s thì GN
tương ứng là 10.8 nếu như ở tốc độ màn trập là 1/4000s thì GN tương ứng
là 3.8
Slow Sync - Đồng bộ đèn tốc độ chậm.
Là việc đánh đèn trong lúc chụp với tốc độ chậm. Hiệu quả của ảnh nhận
được sẽ là kết quả của chế độ hoà trộn giữa hiệu ứng tốc độ chậm để tăng
sáng trong vùng tối và hiệu quả đánh flash làm rõ nét chủ thể trong
vùng phủ sáng.
Nhấn nút chụp, flash đánh sáng làm rõ chủ đề đồng thời ảnh vùng background được ghi nhận
nhưng chưa đủ thời lượng phơi sáng nên vùng background thiếu sáng
Đèn tắt sáng nhưng sensor vẫn lộ sáng, tiếp tục ghi nhận ánh sáng ambient trong vùng background
Có 2 chế độ trong slow sync là flash nháy ngay khi màn trập vừa mới mở (Front- Curtain Sync) và chế độ nháy flash tíc tắc ngay khi sắp kết thúc quá trình phơi sáng
(Rear-Curtain Sync). Mặc định, nếu không gán chế độ Rear-Curtain Sync,
được hiểu là Front-Curtain Sync (một số DSLR không ghi chế độ
Front-Curtain, không nên hiểu lầm là máy không có chế độ này). Với chế
độ Front-Curtain Sync, khi chụp một chủ thể đang chuyển động, đèn flash
sẽ đánh sáng buộc chủ thể phải “tạm”đứng im cho đến khi đèn flash kết
thúc quá trình đánh sáng, và quá trình phơi sáng vẫn tiếp tục ghi nhận
những chuyển động của chủ thể. Kết quả ta sẽ có chủ thể đứng yên và
những vệt nhoè do chuyển động tiếp nối phía sau. Và ngược lại với
Rear-Curtain Sync
Front-Curtain
Sync, chủ thể đứng “tạm” đứng yên lúc bắt đầu lộ sáng (trái) và
Rear-Curtain Sync, chủ thể đứng yên khi gần kết thúc lộ sáng (phải).
FV lock – Khoá thông số đèn
Cũng có tên gọi khác là FE Lock (Flash Exposure Lock). FV Lock (Flash
Value lock) là chế độ khoá thông số đèn để bố cục lại ảnh mà không làm
thay đổi các thông số trên đèn.
Flash Exposure Compensation (FEC) - Bù trừ sáng trên flash
Tăng giảm công suất trên đèn không làm thay đổi giá trị EV trên máy ảnh.
FEC cho hiệu quả khác với hiệu quả bù trừ sáng trên máy là nó không
thể làm thay đổi giá trị EV của background ngoài vùng phủ sáng được. Do
đó rất hiệu quả nếu chỉ muốn thay đổi EV của chủ đề mà background vẫn
giữ nguyên giá trị EV. Hai biến số liên quan đến giá trị EV của đèn là
là cự ly phủ sáng (GN) và tốc độ ăn đèn (Sync Speed).
Thay đổi EV cho chủ thể, nhưng giá trị EV của background (ngoài vùng phủ sáng) vẫn giữ nguyên
Với việc thay đổi bù trừ sáng trên flash, ta có thể ứng dụng vào việc
chụp bủa vây flash - Flash Exposure Bracketing (FEB) bằng cách gán cho
máy ảnh chụp bủa vây liên tục với 3, 5 hoặc 9 tấm ảnh với các trị số
phát sáng (FEC) khác nhau.
Repeating Flash –RPT: Chế độ chớp sáng đèn liên tục
Stroboscopic flash hay RPT - Repeating flash là hiệu ứng chớp một chuỗi
đèn liên tục cách khoảng đều nhau trong một lần phơi sáng duy nhất.
Red-Eye Reduction – Giảm mắt đỏ
Đèn Speedlight sẽ chiếu liên tục một loạt ánh sáng trắng (tạch tạch_ –
trước khi đèn nổ chính thức, nhằm xoá trắng và làm đồng tử của mắt người
(hoặc thú vật) khép lại, giảm thiểu hiện tượng mắt đỏ.
Speedlight auto zoom capability – Góc chiếu sáng thay đổi tự động
Không nên hiểu nhầm “zoom capability” là cự ly phát sáng của đèn mà nên
hiểu là góc chiếu sáng (angle of coverage) của đèn ứng với một tiêu cự
nào đó (dù thực tế là khi thay đổi góc phát sáng, thì GN cũng thay đổi
theo).
Góc chiếu sáng hẹp và góc chiếu sáng rộng
Những đèn chớp điện tử "cổ điển" dùng cho máy film 135 thường chỉ có một
góc chiếu sáng, khoảng 60 độ chiều dọc và 45 độ chiều ngang, ứng với
ống kính tiêu cự 35mm. Nếu ống kính có tiêu cự dài hơn như 50mm thì
không có vấn đề gì, nhưng nếu sử dụng ống kính có tiêu cự ngắn hơn như
24mm, 17mm..., thì vấn đề phát sinh là ảnh sẽ bị tối 4 góc do nằm ngoài
vùng phủ sáng của đèn.
Các đèn Speedlight được cải tiến phù hợp với các DSLR có chức năng thay
đổi góc chiếu sáng phù hợp với khá nhiều các tiêu cự của ống kính, kể
cả fisheye. Nó có thể tự động điều chỉnh góc chiếu sáng của đèn phù hợp
với tiêu cự hiện hành hoặc cũng có thể tuỳ biến để chọn góc phủ phù hợp với ý đồ sáng tác.
(sưu tầm)
-
Có mổi body sony toàn len for
Năm 1985, Minolta cho ra đời cái máy ảnh Dinax 7000 (maxum 7000).
Đây là chiếc máy Autofocus đầu tiên, mở màn cho một thời kỳ "chạy đua
vũ trang" của các hãng máy mà kỹ thuật hàng đầu luôn luôn là Minolta,
Canon và Nikon. Thập niên kế tiếp (từ 1991-2000) có nhiều phát minh
trong nhiếp ãnh.
Trong những khám phá quan trọng thời kỳ này, có lẽ phát minh về flash
có tốc độ ăn đèn cao HSS ( High Speed Synchronisation) là một trong
những phát minh đóng vài trò hàng đầu.
Năm 1993 , Minolta tung ra thị trường chiếc máy ãnh Dynax 700 si và 1
flash 5400HS (HS : High Speed). Sử dụng với flash này, máy Dynax 700 si
có khã năng chụp được tốc độ ăn đèn là . . . 1/8000 s!
Minolta Dynax 700si và flash 5400 HS
Phát minh ngoạn mục này gây chấn động giang hồ
. Kể từ nay các photographer không còn phải đau đầu khi chụp fill-in
ngoài trời nữa . Vậy thì làm thế nào các kỹ sư của Minolta có khã năng
đưa tốc độ ăn đèn của flash lên cao như vậy ?
Với kiểu màn chập cổ điển: ri đô (rideau) kéo theo chiều ngang , hoặc
chiều thẵng đứng. Nếu chụp ãnh với flash. Ngay khi ta "bóp cò", ri đô
sẽ mỡ ra đến lúc cực đại , rồi khép lại. Cùng lúc đó flash cũng sẽ phát
sáng, càng lúc càng mạnh. Cường độ phát sáng của flash sẽ mạnh tối đa khi màn chập mỡ rộng nhất. Sau đó thì yếu dần và tắt hẵn. Nói thì lôi thôi, lâu lắc , nhưng thực tế diễn ra rất nhanh. Nếu vẽ theo đồ thị thì sẽ có hình Parabole , mà đỉnh cao là lúc ri đô mở rộng nhất và cường độ của flash lên cao nhất .
Kiểu màn chập này chỉ đưa tốc độ ăn đèn lên cao nhất là 1/250 s . Hoặc
trường hợp đặc biệt là máy Minolta Dynax 9 (dòng máy Pro) có khã năng
đưa tốc độ lên 1/300s
Flash có khã năng chụp HSS khi phát động (départ) phãi đạt ngay cường
độ mạnh nhất (đĩnh của đồ thị parabole). Sau đó phải kéo dài cho đến
khi ri đô đóng hẵn lai
Màn chập của máy có 2 phần : M1 , M2 . Ngay khi khởi động, M1 bắt đầu
cuốn lên , thì M2 cũng chạy theo , chỉ chừa một khoãng nhỏ cho ánh sáng
vào phim. Do có cường độ sáng mạnh và kéo dài, flash sẽ soi sáng toàn
phần của bãn phim, cho đến khi M1 và M2 cuốn hết lên phía trên .
Phương pháp độc đáo này có thể giúp cho tốc độ ăn đèn của flash vượt
qua ngưỡng cữa của 1/300 s. Thậm chí có thể chụp được tốc độ ăn đèn đến
1/12.0000 s nếu xữ dung flash này với máy Minolta Dynax 9 ! Tuy nhiên,
khi tốc độ ăn đèn càng lên cao thì cường độ ánh sáng của flash sẽ yếu
đi (Guide Number giãm rất nhiều). Vì thế flash phãi thật mạnh, GN ít
nhất từ 36 trỡ lên mới chụp tạm thoãi mái !
Thật ra quan niệm về flash HHS đã do Olympus nghĩ ra trước đó ít lâu
với sự ra đời cái flash HSS F280 (xài cho OM-707, OM-4Ti và OM-3). Tuy
nhiên , chỉ chụp được HSS bằng . . . manual !!! Chúng ta cũng biết khi
tốc độ ăn đèn lên càng cao thì GN càng giãm. Như vậy khi đo sáng để
chụp , ta phãi biết ở tốc độ đó, GN của flash sẽ tụt xuống còn bao
nhiêu (?) để tính khoãng cách tiếp cận với chủ thể !!! Nếu chẵng may
gặp thời tiết lừng khừng, ánh sáng thay đổi liên tục thì cứ . . . chỗng
mông mà tính từ sáng đến tối chưa chắc đã chụp được tấm ãnh nào ! xem
như cứ loay hoay theo kiểu : " Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, đụng phãi cột
nhà cõng mẹ chạy dzô" !!!
Khuyết điễm thứ 2 là GN của flash này quá yếu (khoãng 28). Thí dụ chụp
với 1 máy OM đời củ (có tốc độ ăn đèn 1/60s). Nếu muốn chụp với tốc độ
ăn đèn 1/500s thì GN sẽ tụt xuống còn khoãng . . . 10 !!!
Flash Olympus F280
Vì thế flash này trong thực tế gần như không thể xữ dụng được . Olympus
đành từ bõ ý tưỡng chế tạo flash HSS. Và chính các kỹ sư của Minolta
đã làm được điều "không tưỡng", thành công trong việc chế tạo một máy
ãnh tối tân và một flash HSS hoàn toàn tự động (automatic). Trong năm
đó , hai sãn phẫm này đã đạt được hầu hết những giãi thưỡng quan trọng
nhất của TIPA,EISA, giãi ở Nhật, ở Hoa Kỳ. . . Sau đó đến lượt Metz và
Sigma nối đuôi Minolta.
Đến năm 1995, Canon cho ra đới máy Canon EOS 50 và flash 380 EX Cũng
đạt được tốc độ ăn đèn cao HSS. (automatic). Và serie flash EX ra đời
thay thế cho loại EZ chỉ thích hợp cho các máy đời củ.
Mùa hè năm 2001, đến lượt Pentax đuổi kịp với máy Pentax MZ-S và flash
AF 360FGZ . Khã năng có thể đạt được tốc độ ăn đèn là 1/6000 s.
Riêng Nikon, từ năm 1994 , cùng với sự ra đời của máy F-90X , Nikon
cũng tung ra thị trường flash SB-25 có khã năng chụp được HSS Nhưng
cũng giống như Olympus , flash này chỉ chụp được HSS bằng . . . Manual
!!! Mà thực tế gần như không thể áp dụng được . Mãi đến năm 2004, cùng
lúc với máy DRSL 70D, Nikon tung ra thị trường 2 flash SB-600 và SB-800
có khã năng chụp HSS hoàn toàn tự động như các hãng khác. Nhưng chỉ
xài được cho máy D2H, Nikon F6, D2X. Còn đối với Nikon 70D, hai flash
này chỉ "đẫy" được tốc độ ăn đèn lên tối đa 1/500 s mà thôi.
Về kỹ thuật này thì Nikon khá chậm chạp hơn các hãng khác . Nhưng Nikon
vẫn có một hệ thống flash xuất sắc, nhờ vào một kỹ thuật đo sáng cực
kỳ chính xác không có chổ nào chê.
No comments:
Post a Comment