Friday, December 30, 2011

Bắt đầu chụp ảnh.

Vậy thì cầm như thế nào và bấm máy như thế nào mới đúng? Vì máy ảnh cho tới giờ có qúa nhiều loại với kích thước, hình dáng khác nhau, nên tôi sẽ trình bầy với loại máy đơn giản nhất là máy cơ. Hầu hết máy ảnh đều có 2 phần rõ nét là: phần thân hình chữ nhật và phần ống kính nối với phần giữa của thân máy. Như vậy khi cầm máy thì tay phải sẽ nắm vào thân máy, ngón trỏ để lên nút “chụp” để chụp ảnh, tay trái sẽ ngửa lên đỡ vào phần dưới ống kính, ngay chỗ tiếp nối giữa thân máy và ống kính. Tại sao lai đỡ chỗ đó, vì với những ống kính có tiêu cự (f) lớn thì ống rất dài và nặng nên ta đỡ tay ở đó thì máy sẽ vững hơn. Đối với những máy du lịch hay nhất là máy số loại không chuyên nghiệp sau này thì hầu như không phân biệt được giữa thân và ống kính vì kích thước của chúng nhỏ gọn. Với loại này tay phải vẫn làm như trên còn tay trái sẽ giữ phần bên trái, tuy nhiên nên chu ý tới đèn (flash) của máy vì đèn này thường được gắn phía bên trái nên khi cầm máy ta hay vô tình che bớt 1 phần đèn. Kết quả là khi chụp vẫn thấy đèn “nổ”, phát sáng nhưng hình chụp lại bị tối do thiếu sáng.
Cách “bấm” chụp:
Khi bấm chụp nên chụp bằng ngón trỏ và chỉ có ngón tay nhẹ nhàng nhấn chụp thôi, đừng cố lấy sức nhấn mạnh tay vào nút chụp vì làm như vậy dễ làm cho máy ảnh bị chúi xuống, gây ra dao động trong khi chụp. Trong chúng ta chắc không có ai là chưa đi tập quân sự, khi nhấn nút chụp cũng giống như ta bóp cò súng vậy, tốt nhất là nín thở và nhấn nhẹ xuống. các đời máy sau này nút chụp đều là điện tử nên nó rất nhẹ và nhậy không nặng nề như máy cơ.
Nếu làm tốt 2 yếu tố trên là ta đã có được 1 chút kiến thức về chụp ảnh rồi đấy. kinh nghiệm: nên sử dụng chân máy trong mọi trường hợp có thể, hoặc tỳ lưng hay tay vào 1 chỗ nào đó cho chắc hơn khi chụp.
MÁY ẢNH VÀ 1 SỐ KHÁI NIỆM SƠ ĐẲNG TRONG NHIẾP ẢNH.
Như trên giới thiệu máy ảnh gồm 2 phần căn bản là thân máy và ống kính.
THÂN MÁY (cấu tạo của máy nói trong bài này là máy ảnh cơ Nikon FM2)
Máy ảnh gồm 2 phần cơ bản là thân máy và ống kính, trong đó ống kính là phần căn bản quyết định đến chất lượng của bức ảnh sẽ chụp. Thân máy hiểu nôm na chỉ là chiếc hộp đen dùng chứa phim mà thôi. Do vậy khi mua máy đừng quá quan tâm đến thân máy mà coi nhẹ ống kính, ngược lại nên đầu tư vào những ống kính có chất lượng, còn thân máy chỉ cần loại tầm tầm có đủ chức năng để sử dụng là được.
*Thân máy: Một thân máy cho dù của bất kỳ hãng nào, nói chung gồm những bộ phận cơ bản sau: – Núm quay tua phim về, – Vòng tốc độ, – Cần lên phim, – Lẫy gạt chụp chồng hình (tuỳ từng máy có máy có, máy không) , – Vòng chỉnh độ nhạy bắt sáng của phim., – Đế cắm đèn chụp (đèn flash), – , Lẫy chụp tự động, – Nút nhả để tua phim về, – N út chụp, – Nắp lưng máy.
Khi mở nắp lưng máy ra ta sẽ thấy 1 màng chắn nằm ở khoảng giữa của thân. Màng chắn này chính là “cửa trập”. đây là bộ phận quan trọng nhất của thân máy, có liên quan mật thiết tới tốc độ chụp. Tốc độ càng cao màng trập chuyển động càng nhanh và ngược lại. Tuỳ từng loại máy mà chất liệu làm và kiểu hướng chuyển động cũng khác nhau, nhưng chúng có 1 điểm chung là rất mỏng vì vậy khi mở nắp để lắp hay lấy phim tránh không chạm, hay làm trầy xước nó . Đặc biệt khi chụp nửa chừng mà muốn tháo, cắt phim thì rất cẩn thận với mũi kéo vì lúc đó toàn bộ máy nằm trong “túi đen”, mắt không nhìn thấy mà chỉ thao tác bằng cảm giác thôi.
Ống kính: Đây là bộ phận quan trọng quyết định chất lượng của ảnh, nó là bộ phận quang học để thu hình ảnh từ hình thật bằng phương tiện “truyền” là ánh sáng để lưu lại trên phim chụp. Vì là bộ phận quang học n ên ống kính gồm nhiều thấu kính gép lại nên có thể nói chất lượng của thấu kính quyết định chất lượng ống k ính. Thấu kính có lượng quang sai ít sẽ càng cho ra hình ảnh sắc nét, trung thực hơn. dựa v ào điểm này nên các nhà sản xuất cho ra đời nhiều loại ống kính với các chất lượng khác nhau, chẳng hạn cùng ống kính do Nikkor sản xuất như zoom 28 – 70 G, nhưng nếu đổi thành 28-70 ED thì chất lượng và giá cả của 2 loại đó hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên tiền nào của đấy nếu có it tiền thì chỉ cần chạy loại G thôi cũng đã thấy đẹp rồi nên mọi người cũng không nên băn khoăn khi thấy mình ít ti n quá. Song nên nhớ bao giờ cũng ưu tiên đầu tư vào ống kính nhiều hơn là cho thân máy.
*Cấu tạo ống kính: ống kính bao giờ cũng có hai bộ phận cơ bản là thấu kính và cửa mở sáng. Với mỗi loại ống kính khác nhau thì số lượng, cấu tạo và hình dáng của các thấu kính này cũng khác nhau.
Cửa mở sáng: Thường được làm bằng các lá thép mỏng xếp vòng tròn có nguyên lý hoạt động xòe ra cụp vào như chiếc quạt giấy. Chúng được dùng để khống chế, điều chỉnh lượng ánh sáng mang thông tin của hình ảnh vào phim.
Trên ống kính trong bài viết này (máy Nilon FM2) với ống Normal thường có 3 vòng trị số, còn các ống khác chỉ có 2 vòng.: vòng điều chỉnh sáng, vòng tính độ nét sâu của ảnh, vòng lấy nét.
Vòng điều chỉnh ánh sáng (cửa sáng, điều sáng…) (1) có Các trị số thường thấy trên ống kính là: 1, 4; 2; 8; 4; 5, 6; 8; 11; 16; 22… (trị số 5,6 và 8 được gọi là độ mở trung bình). Trị số càng lớn tức là cửa sáng càng đóng nhỏ và ngược lại. Cửa sáng càng mở to độ nét sâu càng nông, ngược lại cửa sáng càng khép nhỏ (22, 31…) thì độ nét sâu càng lớn.
Vòng lấy nét (còn gọi là focus) (2) tuỳ từng loại ống kính mà các trị số ghi trên vạch này khác nhau tính bằng feet (f) hay met (m).
Vòng tĩnh (vòng c ô ố đ ịnh ) để tính độ nét sâu của ảnh (3) Trên vòng này người ta in hai dòng chữ số giống nhau tính từ tâm điểm của vòng này về bên trái và phải. VD: Trên ống Nikon normal: độ nét 5m và mở 5,6 thì độ nét sâu của ảnh là từ 3,8  6,2m
*Các loại ống kính
Ống Normal: là ống tiêu chuẩn, trong bài này có tiêu cự f= 50mm, góc chụp của nó là 460. Ống này có ưu điểm là không làm biến dạng vật chụp nên thường được dùng chụp lại tranh ảnh, bản đồ…
Ống góc rộng (Wide): là ống kính có tiêu cự nhỏ hơn 50mm, góc chụp lớn hơn 460, độ nét sâu lớn, hay được dùng trong chụp quảng cáo, phong cảnh.
Ống ống góc hẹp (Tele): là ống kính có tiêu cự lớn hơn 50mm, góc chụp nhỏ hơn 460. Do tiêu cự dài nên độ nét sâu kém, góc chụp hẹp thường dùng chụp các vật ở xa, chụp chân dung, tĩnh vật (để xoá mờ phông phía sau làm nổi chủ đề).
Ống Zoom: là ống kính thay đổi được nhiều tiêu cự khác nhau, vì tiêu cực của ống có thể thay đổi nên ống này có tính đa năng dùng cho nhiều chủ đề khác nhau.
Ống Micro hay Macro: là ống kính để chụp các vật có kích thước nhỏ, thường được các nhà sản xuất ghép luôn lên các ống zoom.
Với tiêu chí là ” trở lại ABC về nhiếp ảnh”, bài viết này nhằm giúp cho những người chưa biết gì về nhiếp ảnh, loại đối tượng này có thể biết ít, nhiều và thậm chí không biết tí gì về ngoại ngữ, do vậy ngay từ đầu tôi đã khẳng định sẽ trình bầy một cách rất bình dân để mọi người cùng hiểu với kiến thức sẽ chung nhất, những cái cơ bản nhất chứ không đi sâu vào phân tích tỷ mỷ từng phần. Vì với những người mới học, trước hết họ cần nắm được những cái chung, khái quát của nhiếp ảnh, từ cái căn bản đó sẽ dễ dàng nhanh chóng tiếp cận tới các vấn đề khác sâu hơn, mang tính chuyên môn hơn. Ngôn từ dùng trong bài là ngôn từ thuần nhất tiếng Việt, nếu phải bắt buộc dùng từ nước ngoài để diễn đạt thì tôi đều có chú thích tiếng Việt đi kèm, đây có thể là tính lập dị của tôi bởi tôi không ưa dùng “nửa nạc, nửa mỡ”, điều này có thể sẽ làm mất đi tính trong sáng của tiếng Việt mà “đất mẹ” thì luôn ở trong tim mỗi chúng ta, chúng ta tự hào và luôn hướng về đất mẹ, bởi vậy hãy kiêu hãnh là người Việt nam và hãy giữ gìn bản sắc dân tộc.
Câu tôi dùng trong bài: “…. ống kính Macro hay Micro….” không có nghĩa 2 loại này là một bởi trong cả đoạn đó tôi chỉ đề cập tới cái chung của 2 loại ống kính nên cho dù “cái này hay cái kia” thì cũng đều mang tính chung đó. Ống kính Macro và Micro thật ra là 2 loại ống kính khác nhau. Nói ống Macro và micro là để chụp vật thể ở khoảng cách dưới 1 mét là không đúng, nếu đúng như vậy thì chả nhẽ tất cả các vật cách xa máy ảnh từ 1,01 mét đều không thể chụp được chăng. Bởi vậy, lần nữa nhắc lại vì để những người mới bỡ ngỡ vào “nghề” có thể đọc và hiểu được nên tôi không không đi sâu vào từng loại, tôi chỉ nêu những cái chung vì cả 2 loại ống kính này đều dùng để chụp những vật thể có kích thước nhỏ như trong lĩnh vực ảnh quảng cáo khi chụp nhẫn, hộp thuốc, đồ mỹ nghệ hay chụp lại con tem ….. Để đạt hiệu quả gần tương tự như vậy trong điều kiện không có 2 loại ống kính trên ta có thể dùng ngay ống có tiêu cự dài đang dùng, đảo ngược đầu của nó và chụp. Lưu ý phải đảm bảo “mấu nối” giữa ống kính và thân máy thật chắc chắn, nếu không ảnh có thể bị nhoè hoặc nguy hiểm hơn là hỏng ống kính. Trường hợp này cần dùng chân cho máy được kê chắc chắn.

NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

*Độ nhạy của phim:
Là độ nhạy bắt sáng của phim thường được ký hiệu: ASA, ISO, DIN…, 100 Asa = 100 Iso = 20 Din. Phim có độ nhậy bắt sáng càng cao thì độ mịn càng kém, và ngược lại phim có độ nhạy thấp thì cho độ mịn cao. Độ nhạy trong khoảng t ừ 20 đ ến 60 ASA là phim có độ nhạy thấp. 100, 200 ASA là phim có độ nhạy trung bình, thông thường ta dùng phim này, vừa phù hợp với ánh sáng hay gặp lại vừa cho độ mịn tương đối ổn. Từ 400 ASA trở lên là phim có độ nhạy cao, thường dùng nơi có ánh sáng yếu, hoặc chụp thể thao vì trong hoàn cảnh này tốc độ di chuyển của đối tượng chụp rất nhanh phải chụp ở tốc độ cao thì mới “bắt chết” đối tượng chụp được.
*Nhiệt độ màu: đơn vị tính là Kelvins(K), đây là nhiệt độ của ánh sáng, nó phản ánh sắc độ của vật chụp, mỗi nguồn sáng khác nhau có 1 nhiệt độ màu khác nhau và do vậy khi chụp mầu sắc cho ra cũng khác nhau. Ánh sáng cho mầu sắc trung thực nhất đó là ánh sáng ban ngày, (daylight) hay còn gọi “ánh sáng trắng”, nó có nhiệt độ màu khoảng 54000k. Tuy nhiên trong một ngày tuỳ từng thời điểm khác nhau thì nhiệt độ màu của ánh sáng cũng khác nhau. Buổi sáng trước 9h, nhiệt độ màu là trên 60000k, Từ 9h ® 12h = 52000k ® 57000k, Buổi chiều từ 13h ® 16h = 45000k ® 4000k. Còn khi hoàng hôn 16h ® 18h thì nhiệt độ màu từ 40000k ®2.5000k. Nếu nhiệt độ màu từ 60000k trở lên (ánh sáng đèn tuýp) thường cho sắc xanh của Neon, từ 5.2000k ® 5.8000k (ánh sáng đèn điện tử (flash)) cho màu trung thực, còn từ 4.5000k trở xuống (ánh sáng đèn vàng (đèn tóc tròn)) thì cho sắc vàng đỏ.
Căn cứ vào nhiệt độ mầu thì hiện trên thị trường có 2 loại phim: Phim có ký hiệu Daylight (phim chụp cho ánh sáng ban ngày tự nhiên, ánh sáng trắng) và Phim dùng cho đèn Tunsram (đèn có sắc thái vàng đỏ, bóng điện vàng) nên khi mua phim thì cần lưu ý cho đúng loại nếu không khi chụp sẽ sai mầu. khắc phục tình trạng này người ta chế tạo ra các kính lọc để chuyển đổi nhiệt độ màu của các nguồn sáng. VD: từ nguồn sáng có nhiệt độ màu 6.3000k sang 5.4000k hay từ 4.3000k thành 5.4000k.
Ánh sáng ngược, ánh sáng thuận:
Ánh sáng ngược là ánh sáng mà nguồn sáng được chiếu từ phía sau lưng của đối tượng chụp như mặt trời chiếu sau lưng chiếu lên. Ánh sáng thuận (hay xuôi sáng) là ánh sáng phát ra từ phía người chụp
Tiêu cự:
là khả năng phóng đại của ống kính, tiêu cự càng ngắn góc chụp càng rộng và ngược lại tiêu cự càng dài góc chụp càng hẹp.
Độ nét sâu của ảnh:
là khoảng nét tính từ vật chụp ra phía trước và phía sau vật được chụp. Khoảng nét này phụ thuộc vào độ mở và tiêu cự. Cửa sáng càng mở rộng độ nét sâu càng hẹp, càng khép sâu độ nét sâu càng lớn. Tiêu cự càng dài cho độ nét sâu càng hẹp và ngược lại. VD: Chụp phong cảnh đòi hỏi nét sâu nên ta dùng ống kính có tiêu cự ngắn và đóng hết ống kính. Chụp chân dung, để nổi bật chủ đề (xoá phông, làm nhoè phía sau chủ đề chụp) nên dùng ống kính có tiêu cự dài và mở hết ống kính.
Tốc độ chụp:
Là khoảng thời gian từ khi ta bấm máy chụp để màn trập mở ra đến khi màn trập đóng vào. Màn trập (hay cửa trập) được hiểu như cánh cửa của thân máy ảnh. Khi ấn nút chụp thì màn trập mở ra để nhận “thông tin” (là nguồn sáng mang “tín hiệu” của đối tượng chụp) đi qua ống kính ghi lại trên film, và khi buông tay khỏi nút chụp thì màn trập đóng vào. Tốc độ từ 1/15 trở xuống được gọi là tốc độ chậm, dùng chụp cảnh đêm, ánh sáng yếu hay tạo dòng nước chảy thành các dải lụa mờ. Khi chụp nên dùng chân máy và dây bấm chụp. Ký hiệu B trên vòng tốc độ là tốc độ chụp chậm theo ý muốn, cửa trập được mở cho đến khi nào ta bỏ tay khỏi nút chụp thì lúc đó cửa trập đóng. Tốc độ này rất thuận tiện khi chụp là pháo hoa.Tốc độ từ: 1/30 -1/125 là trung bình, từ 1/500 trở lên là cao, tốc độ cao dùng để bắt chết hình ảnh trong thể thao hay vật di động…. Ngoài ra trên vòng tốc độ còn các ký hiệu khác như hình bóng điện hay tia chớp đó là tốc độ “ăn đèn” của máy, nghĩa là tốc độ kể từ nó trở xuống máy luôn luôn cho chụp với đèn điện tử flash.
Thời chụp:
là sự phối hợp giữa tốc độ chụp và cửa điều sáng, chẳng hạn thời chụp 125-5,6 nghĩa là bức ảnh đó được chụp ở tốc độ 1/125, cửa sáng mở 5,6.
Ba yếu tố: tốc độ, cửa sáng, độ nhạy của phim có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, cứ tăng một nấc của yếu tố này thì phải giảm một nấc của yếu tố kia. Trong rất nhiều trường hợp người ta vận dụng mối tương tác này để tính cho đúng sáng như khi chụp đêm, chụp chồng hình….
VD: Một bức ảnh có thời chụp: 1/125-5,6 với ISO 100 là đúng sáng, ta có thể đổi thành các thời chụp sau mà vẫn đảm bảo đúng sáng như ban đầu: 250 – 4 – ISO 100, 500 – 2,8 – ISO 100 hoặc 125 – 4 – ISO 80, 125 – 8 – ISO 200

Bố cục ảnh

1. Quy tắc số lẻ – Rule of odds
Hiểu theo cách đơn giản, “quy tắc số lẻ” nghĩa là bạn có một số lẻ các chủ thể, đối tượng (objects) trong bức ảnh của bạn. Ảnh của bạn có thể là một bức ảnh với 1 hoặc 3 hoặc 5,… chủ thể. Quy tắc này giúp bức ảnh trở nên hấp dẫn và thú vị hơn trong mắt người xem.
Bức ảnh với bốn quả dâu tây này trông khá nhạt và buồn tẻ. Khó có thể tìm đâu là điểm nhấn của bức ảnh.
Một bức ảnh tương tự với chỉ 3 quả dâu tây nhưng số lẻ quả dâu tây làm cho bức ảnh trông thú vị hơn nhiều.
2. Hạn chế DOF – Limiting the Focus
Hạn chế chiều sâu của bức ảnh (Depth of Field – DOF) là một cách dễ dàng để tăng điểm nhấn của bức ảnh. Kỹ thuật này có thể không cần thiết áp dụng với mọi bức ảnh nhưng lại hữu ích khi bạn muốn làm giảm sự chú ý tới những chủ thể mà bạn muốn ẩn đi. Ứng dụng phổ biến nhất của kỹ thuật này là làm mờ (blur) đi hậu cảnh (background). Blur the background làm cho những background rối mắt trở nên êm ả hơn. Bạn có thể giảm thiểu hóa DOF trong những bức ảnh của bạn bằng cách sử dụng lens với độ mở (aperture) lớn (ví dụ F1.8), zoom cận cảnh (ví dụ như 70-200 zoom vào 135 hoặc 200), hoặc dùng những máy ảnh có sensor lớn (như những DSLR full frame)
Những cây cối trong background nếu được lấy nét có thể làm phân tán sự chú ý của người xem chủ thể chính của búc ảnh. Bằng cách làm mờ hậu cảnh, bức hình này tạo điểm nhấn vào đôi bạn trẻ.
Việc làm mờ đi hậu cảnh làm dẫn sự chú ý của người xem đến đôi mắt của nhân vật trong bức ảnh này
3. Đơn giản hóa – Simplification
Cách tốt nhất để tăng điểm nhấn của bức ảnh là chụp một bức hình trông đơn giản. Cách dễ nhất để làm được điều này là hạn chế số lượng chủ thể trong ảnh của bạn. Bạn có thể sử dụng tip 2 để làm mờ đi những chi tiết gây phân tán sự chú ý của người xem.
Sự đơn giản làm cho ý nghĩa của bức này rõ ràng, thu hút sự chú ý và khiến người xem dành nhiều thời gian hơn cho bức ảnh.
4. Đưa chủ thể chính vào trung tâm – Centering
Đưa chủ thể vào trung tâm của ảnh tạo ra sự cân bằng cho bức ảnh. Típ này có hiệu quả nhất với những bức ảnh đơn giản có chỉ một vài chủ thể.
Một công nhân khoan ở trung tâm của bức ảnh tạo ra điểm nhấn vào người công nhân khoan, đồng thời ảnh ấn tượng hơn nhờ không gian clean xung quanh.
Trong ảnh, một đầu dây mạng đơn giản, trở nên thú vị bằng cách đưa đầu dây vào giữa ảnh một cách đơn giản
5. Nguyên tắc của những 1 phần 3 – Rule of thirds
Nguyên tắc này là một trong những cách hiệu quả và phổ biến nhất được sử dụng trong bố cục một bức ảnh. Bạn có thể dễ dàng cải thiện bố cục bức ảnh của bạn bằng cách sử dụng nguyên tắc này do mắt con người chú ý tự nhiên đến những điểm này khi xem một bức ảnh. Theo nguyên tắc này, bức ảnh sẽ trở nên cuốn hút hơn bằng cách đưa chủ thể chính mà bạn muốn nhân mạnh vào một trong bốn điểm giao nhau của những đường kẻ 3×3 tưởng tượng trên khuôn hình.
Trong hình, con thuyền được đưa vào điểm 1/3 ở góc dưới bên trái tạo ra điểm nhấn thu hút vào con thuyền và làm bức ảnh trông thú vị hơn.
Khi chụp chân dung, bạn có thể sử dụng nguyên tắc này để tăng điểm nhấn vào đôi mắt. Chỉ đơn giản dưa đôi mắt hoặc vùng mắt vào những điểm 1/3 theo nguyên tắc này, bạn có thể có được những bức chân dung ấn tượng.
6. Tạo khoảng trống – Lead room
Lead room là khoảng trống phía trước chủ thể (hướng mà chủ thể hướng tới). Típ này thường được sử dụng cùng với Rule of thirds để làm cho những bức ảnh hấp dấn hơn. Bằng cách để lại khoảng trống phía trước chủ thể, người xem sẽ như cảm thấy rằng chủ thể di chuyển về khoảng trông.
Người trượt ván tuyết được đặt ở vị trí 1/3 bên trên với lead room ở phía trước tạo ra điểm nhấn vào anh ta và cảm giác anh ta đang bay về phía khoảng trống trong bức ảnh
Lead room trước mặt người chạy trong bức ảnh làm bức ảnh trở nên action/active hơn. Nó cũng lôi kéo sự chú ý của người xem đến cảnh hoàng hôn
Để lại khoảng trống phía sau bức ảnh tạo ra cảm giác cô gái sắp kết thúc running.
7. S curve
S Curve là một đường S tưởng tượng trong một bức hình. Bố cục theo cách này làm những bức ảnh trông thú vị hơn nhờ việc dẫn dắt mắt người xem theo đường S tưởng tượng trong bức hình của bạn. S curve cũng có thể sử dụng trong việc tạo dáng (posing) để tăng khả năng biểu cảm/thể hiện của người mẫu
Một ví dụ về đường cao tốc với S curve.
Một bức ảnh khác về đường cao tốc nhưng trông không sinh động bằng bức ảnh trên do không có S curve
S curve cũng có thể được áp dụng khi posing. Những ví dụ sớm nhất về áp dụng S curve có thể được thấy trong những tác phẩm điêu khắc thời Hy Lạp và La Mã cổ đại.
8. Tiền cảnh – Foreground
Đa số các bức ảnh dành phần lớn cho trung cảnh (middleground) và hậu cảnh (background) và phần nhỏ cho tiền cảnh (foreground). Bạn có thể làm ảnh phong cảnh đẹp và ấn tượng hơn nhiều bằng cách thêm tiền cảnh và có một vài chủ thể trong tiền cảnh. Đây là một trong những kỹ năng được sử dụng để tạo ra cảm giác về độ lớn, chiều sâu bức ảnh và làm cho người xem đôi khi cảm thấy như thể anh ấy/ cô ấy đang ở trong bức ảnh.
Những hòn đá trong bức ảnh phong cảnh này tạo cho người xem có cảm nhận về chiều sâu và độ lớn không gian.
Việc thêm tiền cảnh vào bức ảnh làm cho ta có cảm giác như đang ở đó.
9. Lấp đầy khuôn hình – Fill the frame
Khi bạn nghĩ bạn đã tiến đủ gần đến chủ thể, hãy thử tiến gần đến chủ thể hơn nữa. Bạn sẽ có thêm một bố cục/bức hình nữa bằng cách lấp đầy khoảng trống trong khuôn hình với chủ thể
Tiến lại gần hơn và lấp đầy khuôn hình với đầu của con sói giúp tăng điểm nhấn vào con sói và tăng sự kịch tích/ý nghĩa của bức hình. 2 hình trên là của cùng 1 con sói nhưng nội dung của mỗi bức hình hoàn toàn khác nhau.
10. Khuôn trong khuôn – Framimg
Đây là một cách sáng tạo để thêm tiền cảnh vào trong ảnh của bạn. Hãy sử dụng những vật thể quanh bạn để tạo khuôn hình ảo cho chủ thể trong bức ảnh của bảnh. Kỹ thuật này là một trong những cách tuyệt vời để làm tăng sự hấp dẫn của bức ảnh và làm cho một bức ảnh thực sự khác biệt so với những bức ảnh khác.
Bức ảnh này sử dụng hình bóng để tạo ra một khuôn hình ảo xung quanh Đền Taj Mahal.
Frames không nhất thiết phải hoàn hảo, cân đối mà có thể tự nhiên như 2 cây trong bức ảnh này.

Bokeh là gì

Bokeh mô tả sự biểu hiện của các điểm out nét của ánh sáng.
Bokeh khác với độ sắc nét. Độ sắc nét xảy ra tại điểm focus tốt nhất. Bokeh là những gì sẽ xảy ra ngoài các điểm focus tốt nhất đó.
Bokeh mô tả sự xuất hiện, hoặc “cảm nhận”, của vùng out nét. Bokeh không phải là một cái gì đó xa bao nhiêu ngoài nét, bokeh chính là đặc điểm của bất cứ thứ mờ ảo gì ở đó.
Thật không may bokeh tốt không sinh ra tự động trong thiết kế ống kính. Những’ ống kính hoàn hảo làm cho các điểm out nét của ánh sáng trông giống như hình tròn với các cạnh sắc nét. Bokeh lý tưởng sẽ làm cho từng điểm như mờ đi, không phải những tròn sắc cạnh. Các nhà toán học có thể nói sự phân bố cường độ của các hình tròn mờ là hình chữ nhật trong ống kính hoàn hảo, và bokeh tốt có thế tốt hơn phân bố Gauss. Đây là lĩnh vực mà vật lý không phản ánh những gì chúng ta muốn một cách có mỹ thuật.
Những sai khác của quang sai cầu thay đổi theo cách ống kính render các điểm sáng out nét, và dĩ nhiên cả bokeh của chúng. Từ “bokeh” xuất phát từ từ tiếng Nhật “boke” (phát âm bo-keh) có nghĩa đen là hơi say hoặc chóng mặt.
Một ống kính hoàn hảo theo kỹ thuật phải không có quang sai cầu. Do đó, ống kính hoàn hảo focus tất cả các điểm sáng thành những hình nón sáng sau ống kính. Hình ảnh trong focus nếu phim ở chính xác chỗ hình nón đạt điểm tốt nhất của nó. Ống kính càng tốt thì các điểm này càng nhỏ.
Nếu phim không ở chính xác chỗ nón sáng đạt điểm nhỏ nhất thì điểm đó của ảnh chưa tập trung. Rồi các điểm đó được render trên phim như một đĩa sáng, thay vì là một điểm. Đĩa này được gọi là “blur circle” – “hình tròn mờ” or “circle of confusion” – “hình tròn mơ hồ” bằng biểu đồ tính toán DOF (Depth-Of-Field). Trong ống kính không có quang sai cầu, blur circle này là đĩa được chiếu sáng đều. Tất cả các điểm out nét trông giống như chiếc đĩa hoàn hảo với cạnh sắc nét. (Ở khẩu độ nhỏ hơn mà hình ảnh ở trong focus cực tốt bạn có thể thấy các vòng hư ảo xung quanh hình tròn, nhưng đó là sự nhiễu xạ, chúng ta không bàn đến ở đây) Đây chưa phải tối ưu cho boke, vì như bạn có thể tưởng tượng các cạnh sắc nét của các đĩa này có thể bắt đầu tạo sự rõ nét cho các vật được cho là trong vùng out nét.
Không có thấu kính nào hoàn hảo, vì vậy người ta thường không nhìn thấy các đĩa hoàn hảo.
Ống kính thực luôn có độ quang sai cầu. Điều này nghĩa là, trong thực tế, mặc dù tất cả ánh sáng đi qua lens từ một điểm trên vật thể có thể gặp nhau tại một điểm nhỏ, đẹp trên phim, do đó, sự phân bố ánh sáng trong chính hình nón có thể không đồng đều. Vâng, chúng ta nhận ra sự trừu tượng ở đây, đó là lí do tại sao vài nhiếp ảnh gia chậm chạp không chịu hiểu về Bokeh.
Minh hoạ
Bad Bokeh
Example of Bad Bokeh. Những điểm mờ của cành cây vẫn có cạnh sắc nét. Bokeh tốt sẽ cho ta điểm mờ có cạnh mềm mại.
Quang sai cầu nghĩa là các đĩa được tạo ra bởi các điểm out nét trên vật thể sẽ được chiếu sáng không đều. Thay vào đó chúng có xu hướng thu thêm ánh sáng vào phần giữa của đĩa hoặc hướng ra phần cạnh. Đây là một số ví dụ:
bad bokeh © KenRockwell.com
Fig. 1. Poor Bokeh. Đây là blur circle đã được phóng đại cho thấy bokeh tồi. Một blur circle phải làm sao cho điềm sáng out nét được render. Lưu ý cạnh được xác định sắc nét và rõ đều thế nào cho điểm có mục đích out nét, và tâm lại mờ.
neutral bokeh © KenRockwell.com
Fig 2. Neutral Bokeh. Đây là blur circle sáng đều và hoàn hảo về kĩ thuật. Điều này không hẳn tốt cho bokeh, bởi vì cạnh vẫn xác định được. Các đối tượng out nét, dù là điểm sáng hay đường sáng, có thể tạo ra một cách hiệu quả các đường sắc nét hợp lý trong ảnh do các cạnh của blur circle sắc nét. Đây là blur circle từ lens hiện đại nhất được thiết kế gọi là “perfect”.
good bokeh © KenRockwell.com
Fig. 3. Good Bokeh. Đây là thứ ta mong muốn. Điều này tuyệt vời cho bokeh vì cạnh hoàn toàn không xác định. Đây cũng là kết quả của cùng quang sai cầu, nhưng theo hướng ngược lại đối với ví dụ bokeh tồi trong Fig. 1. Đây là chỗ mà nghệ thuật và kỹ thuật bắt đầu phân tách, Khi bức hình nhìn tốt hơn lại là kết quả của sự không hoàn hảo. Bokeh hoàn hảo đòi hỏi phân bó hình trong mờ Gausian, và ống kính được thiết kế cho ví dụ trung tính như trong Fig. 2 phía trên.
Theo như bạn có thế hiểu, nếu ánh sáng có xu hướng tụ vào giữa đĩa out nét trên một mặt của hình nón, thì nó sẽ tụ lại trên phần ngoài của đĩa trên mặt kia của nón. Dưới độ quang sai cầu đúng sẽ gây ra ánh sáng tụ theo một cách, quá độ quang sai cầu đúng thì gây ra ánh sáng tụ theo cách khác. Do đó, ống kính với bokeh tuyệt vời cho phông nền có bokeh kinh khủng cho cận cảnh, và ngược lại.
Mọi thứ lạ kỳ từ đây. Một yếu tố lớn khác là làm thế nào để bên ngoài của blur circle được render. Dẫu cho chúng ta có ký hiệu nghèo như ở hình 1, nếu viền ngoài được render nhẹ nhàng, như trong máy AF-S Nikkor 80-200 f/2.8, chúng ta sẽ có bokeh tốt.
Một cách nghệ thuật, nhiều người hướng đến thích cận cảnh sắc nét và hậu cảnh mờ nhẹ. Cận cảnh mờ ảo có xu hướng làm người ta rối trí, và hậu cảnh mờ ảo thì không sao. Do đó, tôi phân loại ống kính với bokeh tốt như là chúng với bokeh hậu cảnh tốt. Theo cá nhân, tôi tránh bất cứ thứ gì mờ ảo trong cận cảnh bằng cách di chuyển camera hoặc đối tượng cận cảnh.
Lí do mà bokeh được thoả luận trong nhiếp ảnh là vì chúng ta thích vùng out nét nhẹ nhàng hơn là rõ nét, điều đó dường như được sắp đặt, mặc dù mọi thứ out nét. Vì điều này, nó thích hợp hơn với những người muốn cùng out nét nhẹ nhàng có sự phân bố ánh sáng trong từng blur circle được tập trung thêm về phần trung tâm. Điều đó làm mỗi blur circle có xu hướng là một điểm sáng được làm mở dần về phía cạnh. Điều này làm tất cả các blur circle pha trộn độc đáo.
Mặt khác, nếu người ta cố gắng giữ mọi thứ sắc nét nhất có thể, hiệu ứng bokeh sẽ hoạt động khác đi ở chỗ hình ảnh của bạn gần với trong tầm focus. Nếu nghi ngờ, hãy thử xem. Ống kính phác hoạ rất nhanh trở nên rất lạ.
Không có thước đo cho bokeh, vì các nhà khoa học nhắm đến ví dụ tầm thường ở hình 2 như ống kính hoàn hảo của họ. Giống như mọi thứ khác trong nghệ thuật, bạn đánh giá bokeh bằng cách nhìn vào ảnh.

Một số cách chụp ảnh

1. Chụp ảnh ngoài trời với ánh sáng tự nhiên:
Ánh sang tự nhiên là nguồn sang lý tưởng để chụp hình, nhiệt độ mầu phù hợp vớI phim phổ thong ddang dung nên luôn cho mầu đúng sắc độ.
Tốc độ thường dùng:
    - 30, 60 (trong bóng râm của trời không nắng, hoặc chiều tối).
    - 125 (trong bóng râm của trời nắng) hoặc
    - 250 của trời nắng nhẹ.
Không nên chụp dưới trời nắng gắt, chụp như vậy ảnh thường không nổi hết các chi tiết của đối tượng chụp. Nguồn ánh sang này dễ sử dụng nhưng nếu không cẩn thận khi chụp sẽ có hiện tượng ảnh bị lu mờ (không trong), tựa như có lớp sương mỏng phủ lên ảnh, hiện tượng này ngườI ta gọI là bị “halo”. Để tránh hiện tượng này nên chụp xuôi sáng, và sử dụng loa chống loá sáng, chụp hơi chúc máy xuống so với nguồn phát sáng .
2. Chụp ảnh ngoài trời phối hợp đèn flash:
Đôi khi ta chụp người đứng ngược vơí nguồn sang, Ví dụ chụp hình ngườI đứng ở giũa của, lựng quay ra ngoài sân, nếu không dùng đèn điện tử (flash) thì lúc đó hoặc là cảnh ngoài sân đúng sáng, mặt ngườI đen, hoặc là mặt ngườI đúng sáng còn cảnh ngoài sân lạI loá trắng do thừa sáng. Vậy để có búc ảnh mà cả 2 đốI tượng đó đều đúng sáng thì ta cần phốI hợp cùng lúc vớI đèn flash. Đầu tiên kiểm tra trên bảng hướng dẫn ở thân đèn xem vớI khoảng cách từ máy tớI ngườI được chụp thì cần mở ống kính là bao nhiêu, đặt cửa sáng ở dộ mở đó. Tiếp theo giữ nguyên cửa sáng, dùng đồng hồ đo sáng có trong máy rồI phốI hợp vớI tốc độ chụp để tìm ra vị trí đúng sáng cho đồng hồ đo đó (lưu ý, tốc độ máy phảI luôn nhỏ hơn tốc độ ăn đèn ghi trên máy), như vậy lúc này ta đã cân bằng được lượng sang giũa ánh sáng đèn điện tử và ánh sang trời. Ta cũng có thể phốI hợp tình huống này khi chụp ngườI ở trong phòng tốI để có thể kết hợp được cả những nguồn sang khác phát ra từ các bong đèn trong phòng. VớI những máy tự động (trừ máy du lịch) thì chỉ việc đặt cả máy và đèn chụp ở chế độ TTL là được.
3. Kỹ thuật chụp lia máy (Panning)

Chủ đề trong bức ảnh của cách chụp này bao giờ cũng nổi bật ra khỏi phông nền vì nền phông phía sau luôn mờ nhoè, do vậy nội dung bức ảnh tập trung và cô đọng hơn. Mặt khác nền phông phía sau nhoè theo vệt nên nó tạo cho ta cảm giác là vật được chụp đang di chuyển với tốc độ cao. Đối tượng được chụp thường đang ở trong trạng thái chuyển động như người đi bộ, chạy, xe đạp, xe máy… đang đi…Thường có 2 trường hợp xảy ra trong cách chụp này.
a. Người chụp đứng yên tại chỗ còn đối tượng được chụp đang di chuyển.
Trường hợp này tốc độ chụp nên chọn là:
     -  8 dùng cho người đi bộ (chụp những bà gánh hàng rong đang hốI hả vì sợ muộn buổI chợ sớm…),
     - 16 cho người chạy và xe đạp đang đi,
     - 30 cho xe máy đang chuyển động.
b. Cả người chụp và đối tượng được chụp đều di chuyển
như cùng ngồi trên 2 xe máy di chuyển cùng chiều. trong hoàn cảnh này cố gắng giữ đồng tốc giữa 2 xe, tốc độ chụp từ 30 đến 120.
Trong cả 2 trường hợp trên tốc độ chụp có thể dùng cao hơn nữa vẫn chụp được nhưng hiệu quả không cao, phông mờ nhoè ít. VớI lốI chụp này nên chọn tốc độ càng chậm càng tốt, ảnh càng đẹp hơn. Tốc độ chậm có khả năng gây mất nét nên để giảm bớt tình trạng này khi chụp nên chọn tiêu cự ngắn nghĩa là dùng ống kính góc rộng. Khi dùng tiêu cự này thì độ nét sâu của ảnh lớn, giảm bớt tình trạng mất nét khi chụp, đồng thờI cho phép ta dễ dàng nớI lỏng bố cục. Do phần vì đốI tượng chụp đang chuyển động dẫn đến khó bố cục chính xác, phần do đạI đa số máy ảnh đều có điểm ngắm nét nằm vào giữa khung hình nên chủ đề của bức ảnh chụp kiểu này thường nằm vào chính giữa, do vậy sau khi chụp xong thường phảI cắt cúp lạI ảnh, để cắt cúp được đẹp thì ngay khi chụp nên tạo sẵn khoảng trống trong bức ảnh đó, nghĩa là không nên bố cục chặt quá mà nớI lỏng ra 1 chút.
Nếu chụp vớI máy cơ thì nên xác định trước điểm chụp, ngắm vào đó lấy nét thờI chụp, bố cục rồI hướng máy về phía đốI tượng chụp đồng thờI rê máy theo đốI tượng đó cho tớI khi di chuyển đến điểm dịnh chụp (đã xác định trước) thì bấm chụp. ĐốI vớI các máy tự động lấy nét như Nikon f801, F90, F80….thì chuyển phần lấy nét về ký hiệu C (continue- luôn tự dộng lấy nét khi vật di chuyển). Lưu ý luôn luôn rê máy ngay cả khi đang bấm
4. Kỹ thuạt chụp đêm và chụp pháo hoa
a. Chụp đêm
Ánh sáng, mầu sắc của bóng đèn phản chiếu trên nền trời đêm thật lung linh huyền ảo, ai đã 1 lần cầm máy thì thể nào cũng có 1 lần thử chụp đêm. Thời điểm để chụp cảnh đêm đẹp nhất là lúc chạng vạng tối, khi ấy nền trời còn phảng phất 1 mầu xanh dịu, nhẹ khiến cho cây cối, hình khối nhà cửa vẫn in trên nền trời khiến cho bố cục thêm sinh động. Trong lúc đó thì ánh điện đường hay ánh đèn từ những ô cửa sổ cũng vừa được thắp lên tạo cho không gian bức ảnh 1 luồng sáng đều, không bị chỗ tối quá hay sáng quá, những vệt sáng vàng hay đỏ phát ra từ đèn ôtô, xe máy tạo nên những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, uốn lượn như muốn ôm lấy cả khung hình. Với thời khắc này thì hình ảnh thu vào khung hình thường rộng, dễ bố cục. nếu chụp lúc đêm xuống hoàn toàn thì nên bố cục “chặt” vì nếu lấy rộng ra sẽ có quá nhiều khỏang đen chiếm trong khung hình… Khi chụp đêm, ánh sáng phát ra từ những điểm sáng như đèn đường… thường có hình tia sao. Để những tia sao này càng dài thì ta cần phải khép chặt ống kính, thông thường tôi dùng f 8 hoặc 11. Càng khép chặt thì tốc độ càng chậm nên để tránh bị nhòe cần phải có chân máy và dây bấm mềm. (cách khác để có hình tia sao là lắp thêm kính lọc tia sao ở trước ống kính)
Việc chụp đêm với những máy tự động đo sáng thì rất đơn giản, chỉ việc kê chắc máy, lấy nét và bố cục rồi bấm là máy sẽ tự đo sáng cho chụp (những máy này tốc đọ chậm nhất trước B là 30s), riêng máy tự động loại du lịch thì không chụp đêm được vì lúc giơ máy lên đo sáng chụp máy sẽ tự động bật đèn điện tử (flash) và như vạy thì không thể chup được. Chụp bằng máy cơ thì hơi phức tạp hơn 1 chút, đòi hỏi người chụp phải biết chút ít về mối tương tác giữa 3 yếu tố: tốc độ chụp, cửa điều sáng và độ nhậy bắt sáng của phim (xem phần này ở bài “trở lại bài ABC về nhiếp ảnh”) . Khi chụp bằng máy cơ khi đưa máy lên đo sáng thì máy luôn báo “âm”, thiếu sáng không thể nào đo được cho đủ sáng. Lúc này thay vì để độ nhạy của phim ở giá trị phim đang sử dụng (ví dụ phim đang dùng là 100 ASA) thì ta thay đổi vòng điều chỉnh độ nhạy bắt sáng của phim theo chiều tăng cho tới khi nào đồng hồ đo sáng báo đủ sáng thì thôi, ví dụ lúc này là: độ nhạy bắt sáng = 800 Asa, tốc độ chụp 1/4, của mở sáng là 11. Theo như trên nói để có tia sáng hình sao ta giữ nguyên cử điều sáng ở f 11, như vậy chỉ còn 2 yếu tố thay đổi là Asa và tốc độ chụp mà 2 yếu tố này lại tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa là cứ tăng 1 khoảng giá trị ở yếu tố này thì sẽ giảm đỉ 1 khoảng y như thế ở yếu tố kia. Do vậy để giảm từ 800 Asa xuống 100 Asa cho đúng với giá trị thực tế của phim đang chụp thì ta sẽ phải giảm xuống 3 nấc (800, 400, 200, 100), đồng thời tăng 3 nấc cho tốc độ chụp từ 1/4 lúc này sẽ là (1/4, 1/2, 1s, 2s). Nghĩa là ta sẽ chụp ở tốc độ 2s, cửa mở sáng 11, phim 100 Asa. Có những trường hợp tốc độ chụp rất chậm xuống đến 8 hay 10s, lúc này trên vòng tốc độ sẽ không có những giá trị đó, khi chụp trong hoàn cảnh này ta đặt máy ở chế độ B và dùng dây bấm mềm để chụp. Tốc độ B là tốc độ cho ta bấm và giữ của mở sáng lâu bao nhiêu tùy ý, khi nào muốn đóng cửa sáng lại thì thả tay giữ nút bấm ra là cửa sáng đóng, do quá trình giữu nút bấm lâu như vậy nên ta cần phải dùng đến dây bấm mềm để tránh làm rung động máy. Vì những giá trị như 8 hay 10s không có trên thang chia của máy nên khi dùng ở tốc độ này ta nên có đồng hồ đeo tay để đo hoặc có thể ước lượng bằng cách đếm tù 1 đến 10 theo nhịp chạy của đồng hồ, giả sử có đếm quá lên chút ít cũng không sao vì cảnh đêm ánh sáng thường yếu không ảnh hưởng nhiều lắm khi ta chụp quá sáng.
b. Chụp pháo hoa thực ra chính là 1 phần của chụp đêm, nên cũng luôn cần chân máy và dây bấm mềm. Chụp pháo hoa khác với chụp đêm 1 chút ở thời điểm bấm máy. Nên cố gắng chụp pháo hoa ở ngay những quả bắn đầu tiên vì lúc này do mới bắn lên nên nền trời không có nhiều khói khiến cho bức ảnh trong hơn, còn giả sau này thì trời sẽ vẩn đục, ngả màu xám do bị khói quẩn in vào, nhất là hôm đó lại không có gió thì khói sẽ che mất pháo hoa.
Nếu chỉ chụp pháo hoa không mà không có cảnh phía dưới (chụp sau này để ghép sau) thì máy cơ không phải tính toán lằng nhằng như trên mà cứ giơ lên để tốc độ chụp ở B là sẽ được pháo hoa.

Nếu chụp cả cảnh ở phía dưới thì máy cơ vẫn phải tính toán như trên để có được hình ảnh đúng sáng cho phần cảnh phía dưới. Tuy nhiên khi chụp lại không bấm chụp đủ ngay thời gian chụp như ở phần chụp đêm, mà chỉ chụp 1 nửa thời gian đó, phần nửa còn lại sẽ chờ khi pháo hoa bắn lên thì chụp nốt, như vậy ảnh mới không bị quá sáng.
Cả máy cơ và máy tự động đo sáng (trừ máy du lịch) khi chụp pháo hoa đều nên sử dụng tốc độ B, với tốc độ này cho phép ta lựa chọn quả nào thích thì lấy, quả nào không thích thì thôi. Thế nào là lựa chọn, ví dụ như khi bắn vào dịp năm mới 2003 thì thế nào trên nền trời cũng sẽ có chữ 2003, vậy ta phải làm sao chỉ có chữ 2003 lọt vào mà không bị các bông khác lấn át Đây chỉ là 1 mẹo nhỏ rút ra trong quá trình chụp xin phổ biến lại cho các bạn. Trước khi chụp ngoài dây bấm mềm nên chuản bị sẵn 1 miếng vải mềm, dầy mầu sẫm, tốt nhất mầu đen hay tiện hơn cả là 1 chiếc mũ nồi mầu tối, vừa tránh sương gió đêm 30, vừa dùng luôn để chụp. Máy kê chắc chắn trên chân chụp, lắp dây bấm mềm, tháo bỏ nắp ống kính hướng đến nơi cần chụp, lấy bố cục, đặt nét ở vạch vô cực, cửa sáng để 8 rồi chụp mũ nồi lên ống kính, lúc này mũ nồi có nhiệm vụ thay nắp ống kính, bấm dây bấm mềm để chụp rồi giữ ngay lấy nó, nghĩa là lúc này máy đang ở chế độ chụp, màng chụp vẫn đang mở nhưng do có mũ nồi che ở ngoài nên không có hình ảnh nào lọt được vào phim. Ngồi đợi khi nào pháo hoa bắn lên nếu thấy ưng quả nào thì nhấc mũ nồi ra, lúc đó mới có hình ảnh ghi lên phim, khi nào thấy đủ không chụp nữa thì bấm thả dây bấm mềm để kết thúc bức ảnh đó. Cứ kiên trì chọn lựa như vậy ta sẽ loại được những quả xấu ra khỏi khung hình, ảnh chụp ra sẽ đẹp hơn, không bị rối rắm do có nhiều pháo hoa chồng chéo lên nhau. Tại sao không dùng ngay nắp ống kính để đậy mà lại dùng vải mềm vì nếu dùng nắp ống kính thì mỗi khi đậy nắp ống kính sẽ rất có thể ta làm rung máy và như vậy ảnh hưởng tới các chi tiết khác làm nó nhoè trong trường hợp ta chụp cả pháo hoa và cảnh ở phía dưới.