Friday, December 30, 2011
Bắt đầu chụp ảnh.
Cách “bấm” chụp:
Khi bấm chụp nên chụp bằng ngón trỏ và chỉ có ngón tay nhẹ nhàng nhấn chụp thôi, đừng cố lấy sức nhấn mạnh tay vào nút chụp vì làm như vậy dễ làm cho máy ảnh bị chúi xuống, gây ra dao động trong khi chụp. Trong chúng ta chắc không có ai là chưa đi tập quân sự, khi nhấn nút chụp cũng giống như ta bóp cò súng vậy, tốt nhất là nín thở và nhấn nhẹ xuống. các đời máy sau này nút chụp đều là điện tử nên nó rất nhẹ và nhậy không nặng nề như máy cơ.
Nếu làm tốt 2 yếu tố trên là ta đã có được 1 chút kiến thức về chụp ảnh rồi đấy. kinh nghiệm: nên sử dụng chân máy trong mọi trường hợp có thể, hoặc tỳ lưng hay tay vào 1 chỗ nào đó cho chắc hơn khi chụp.
MÁY ẢNH VÀ 1 SỐ KHÁI NIỆM SƠ ĐẲNG TRONG NHIẾP ẢNH.
Như trên giới thiệu máy ảnh gồm 2 phần căn bản là thân máy và ống kính.
THÂN MÁY (cấu tạo của máy nói trong bài này là máy ảnh cơ Nikon FM2)
Máy ảnh gồm 2 phần cơ bản là thân máy và ống kính, trong đó ống kính là phần căn bản quyết định đến chất lượng của bức ảnh sẽ chụp. Thân máy hiểu nôm na chỉ là chiếc hộp đen dùng chứa phim mà thôi. Do vậy khi mua máy đừng quá quan tâm đến thân máy mà coi nhẹ ống kính, ngược lại nên đầu tư vào những ống kính có chất lượng, còn thân máy chỉ cần loại tầm tầm có đủ chức năng để sử dụng là được.
*Thân máy: Một thân máy cho dù của bất kỳ hãng nào, nói chung gồm những bộ phận cơ bản sau: – Núm quay tua phim về, – Vòng tốc độ, – Cần lên phim, – Lẫy gạt chụp chồng hình (tuỳ từng máy có máy có, máy không) , – Vòng chỉnh độ nhạy bắt sáng của phim., – Đế cắm đèn chụp (đèn flash), – , Lẫy chụp tự động, – Nút nhả để tua phim về, – N út chụp, – Nắp lưng máy.
Khi mở nắp lưng máy ra ta sẽ thấy 1 màng chắn nằm ở khoảng giữa của thân. Màng chắn này chính là “cửa trập”. đây là bộ phận quan trọng nhất của thân máy, có liên quan mật thiết tới tốc độ chụp. Tốc độ càng cao màng trập chuyển động càng nhanh và ngược lại. Tuỳ từng loại máy mà chất liệu làm và kiểu hướng chuyển động cũng khác nhau, nhưng chúng có 1 điểm chung là rất mỏng vì vậy khi mở nắp để lắp hay lấy phim tránh không chạm, hay làm trầy xước nó . Đặc biệt khi chụp nửa chừng mà muốn tháo, cắt phim thì rất cẩn thận với mũi kéo vì lúc đó toàn bộ máy nằm trong “túi đen”, mắt không nhìn thấy mà chỉ thao tác bằng cảm giác thôi.
Ống kính: Đây là bộ phận quan trọng quyết định chất lượng của ảnh, nó là bộ phận quang học để thu hình ảnh từ hình thật bằng phương tiện “truyền” là ánh sáng để lưu lại trên phim chụp. Vì là bộ phận quang học n ên ống kính gồm nhiều thấu kính gép lại nên có thể nói chất lượng của thấu kính quyết định chất lượng ống k ính. Thấu kính có lượng quang sai ít sẽ càng cho ra hình ảnh sắc nét, trung thực hơn. dựa v ào điểm này nên các nhà sản xuất cho ra đời nhiều loại ống kính với các chất lượng khác nhau, chẳng hạn cùng ống kính do Nikkor sản xuất như zoom 28 – 70 G, nhưng nếu đổi thành 28-70 ED thì chất lượng và giá cả của 2 loại đó hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên tiền nào của đấy nếu có it tiền thì chỉ cần chạy loại G thôi cũng đã thấy đẹp rồi nên mọi người cũng không nên băn khoăn khi thấy mình ít ti n quá. Song nên nhớ bao giờ cũng ưu tiên đầu tư vào ống kính nhiều hơn là cho thân máy.
*Cấu tạo ống kính: ống kính bao giờ cũng có hai bộ phận cơ bản là thấu kính và cửa mở sáng. Với mỗi loại ống kính khác nhau thì số lượng, cấu tạo và hình dáng của các thấu kính này cũng khác nhau.
Cửa mở sáng: Thường được làm bằng các lá thép mỏng xếp vòng tròn có nguyên lý hoạt động xòe ra cụp vào như chiếc quạt giấy. Chúng được dùng để khống chế, điều chỉnh lượng ánh sáng mang thông tin của hình ảnh vào phim.
Trên ống kính trong bài viết này (máy Nilon FM2) với ống Normal thường có 3 vòng trị số, còn các ống khác chỉ có 2 vòng.: vòng điều chỉnh sáng, vòng tính độ nét sâu của ảnh, vòng lấy nét.
Vòng điều chỉnh ánh sáng (cửa sáng, điều sáng…) (1) có Các trị số thường thấy trên ống kính là: 1, 4; 2; 8; 4; 5, 6; 8; 11; 16; 22… (trị số 5,6 và 8 được gọi là độ mở trung bình). Trị số càng lớn tức là cửa sáng càng đóng nhỏ và ngược lại. Cửa sáng càng mở to độ nét sâu càng nông, ngược lại cửa sáng càng khép nhỏ (22, 31…) thì độ nét sâu càng lớn.
Vòng lấy nét (còn gọi là focus) (2) tuỳ từng loại ống kính mà các trị số ghi trên vạch này khác nhau tính bằng feet (f) hay met (m).
Vòng tĩnh (vòng c ô ố đ ịnh ) để tính độ nét sâu của ảnh (3) Trên vòng này người ta in hai dòng chữ số giống nhau tính từ tâm điểm của vòng này về bên trái và phải. VD: Trên ống Nikon normal: độ nét 5m và mở 5,6 thì độ nét sâu của ảnh là từ 3,8 6,2m
*Các loại ống kính
Ống Normal: là ống tiêu chuẩn, trong bài này có tiêu cự f= 50mm, góc chụp của nó là 460. Ống này có ưu điểm là không làm biến dạng vật chụp nên thường được dùng chụp lại tranh ảnh, bản đồ…
Ống góc rộng (Wide): là ống kính có tiêu cự nhỏ hơn 50mm, góc chụp lớn hơn 460, độ nét sâu lớn, hay được dùng trong chụp quảng cáo, phong cảnh.
Ống ống góc hẹp (Tele): là ống kính có tiêu cự lớn hơn 50mm, góc chụp nhỏ hơn 460. Do tiêu cự dài nên độ nét sâu kém, góc chụp hẹp thường dùng chụp các vật ở xa, chụp chân dung, tĩnh vật (để xoá mờ phông phía sau làm nổi chủ đề).
Ống Zoom: là ống kính thay đổi được nhiều tiêu cự khác nhau, vì tiêu cực của ống có thể thay đổi nên ống này có tính đa năng dùng cho nhiều chủ đề khác nhau.
Ống Micro hay Macro: là ống kính để chụp các vật có kích thước nhỏ, thường được các nhà sản xuất ghép luôn lên các ống zoom.
Với tiêu chí là ” trở lại ABC về nhiếp ảnh”, bài viết này nhằm giúp cho những người chưa biết gì về nhiếp ảnh, loại đối tượng này có thể biết ít, nhiều và thậm chí không biết tí gì về ngoại ngữ, do vậy ngay từ đầu tôi đã khẳng định sẽ trình bầy một cách rất bình dân để mọi người cùng hiểu với kiến thức sẽ chung nhất, những cái cơ bản nhất chứ không đi sâu vào phân tích tỷ mỷ từng phần. Vì với những người mới học, trước hết họ cần nắm được những cái chung, khái quát của nhiếp ảnh, từ cái căn bản đó sẽ dễ dàng nhanh chóng tiếp cận tới các vấn đề khác sâu hơn, mang tính chuyên môn hơn. Ngôn từ dùng trong bài là ngôn từ thuần nhất tiếng Việt, nếu phải bắt buộc dùng từ nước ngoài để diễn đạt thì tôi đều có chú thích tiếng Việt đi kèm, đây có thể là tính lập dị của tôi bởi tôi không ưa dùng “nửa nạc, nửa mỡ”, điều này có thể sẽ làm mất đi tính trong sáng của tiếng Việt mà “đất mẹ” thì luôn ở trong tim mỗi chúng ta, chúng ta tự hào và luôn hướng về đất mẹ, bởi vậy hãy kiêu hãnh là người Việt nam và hãy giữ gìn bản sắc dân tộc.
Câu tôi dùng trong bài: “…. ống kính Macro hay Micro….” không có nghĩa 2 loại này là một bởi trong cả đoạn đó tôi chỉ đề cập tới cái chung của 2 loại ống kính nên cho dù “cái này hay cái kia” thì cũng đều mang tính chung đó. Ống kính Macro và Micro thật ra là 2 loại ống kính khác nhau. Nói ống Macro và micro là để chụp vật thể ở khoảng cách dưới 1 mét là không đúng, nếu đúng như vậy thì chả nhẽ tất cả các vật cách xa máy ảnh từ 1,01 mét đều không thể chụp được chăng. Bởi vậy, lần nữa nhắc lại vì để những người mới bỡ ngỡ vào “nghề” có thể đọc và hiểu được nên tôi không không đi sâu vào từng loại, tôi chỉ nêu những cái chung vì cả 2 loại ống kính này đều dùng để chụp những vật thể có kích thước nhỏ như trong lĩnh vực ảnh quảng cáo khi chụp nhẫn, hộp thuốc, đồ mỹ nghệ hay chụp lại con tem ….. Để đạt hiệu quả gần tương tự như vậy trong điều kiện không có 2 loại ống kính trên ta có thể dùng ngay ống có tiêu cự dài đang dùng, đảo ngược đầu của nó và chụp. Lưu ý phải đảm bảo “mấu nối” giữa ống kính và thân máy thật chắc chắn, nếu không ảnh có thể bị nhoè hoặc nguy hiểm hơn là hỏng ống kính. Trường hợp này cần dùng chân cho máy được kê chắc chắn.
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
*Độ nhạy của phim:
Là độ nhạy bắt sáng của phim thường được ký hiệu: ASA, ISO, DIN…, 100 Asa = 100 Iso = 20 Din. Phim có độ nhậy bắt sáng càng cao thì độ mịn càng kém, và ngược lại phim có độ nhạy thấp thì cho độ mịn cao. Độ nhạy trong khoảng t ừ 20 đ ến 60 ASA là phim có độ nhạy thấp. 100, 200 ASA là phim có độ nhạy trung bình, thông thường ta dùng phim này, vừa phù hợp với ánh sáng hay gặp lại vừa cho độ mịn tương đối ổn. Từ 400 ASA trở lên là phim có độ nhạy cao, thường dùng nơi có ánh sáng yếu, hoặc chụp thể thao vì trong hoàn cảnh này tốc độ di chuyển của đối tượng chụp rất nhanh phải chụp ở tốc độ cao thì mới “bắt chết” đối tượng chụp được.
*Nhiệt độ màu: đơn vị tính là Kelvins(K), đây là nhiệt độ của ánh sáng, nó phản ánh sắc độ của vật chụp, mỗi nguồn sáng khác nhau có 1 nhiệt độ màu khác nhau và do vậy khi chụp mầu sắc cho ra cũng khác nhau. Ánh sáng cho mầu sắc trung thực nhất đó là ánh sáng ban ngày, (daylight) hay còn gọi “ánh sáng trắng”, nó có nhiệt độ màu khoảng 54000k. Tuy nhiên trong một ngày tuỳ từng thời điểm khác nhau thì nhiệt độ màu của ánh sáng cũng khác nhau. Buổi sáng trước 9h, nhiệt độ màu là trên 60000k, Từ 9h ® 12h = 52000k ® 57000k, Buổi chiều từ 13h ® 16h = 45000k ® 4000k. Còn khi hoàng hôn 16h ® 18h thì nhiệt độ màu từ 40000k ®2.5000k. Nếu nhiệt độ màu từ 60000k trở lên (ánh sáng đèn tuýp) thường cho sắc xanh của Neon, từ 5.2000k ® 5.8000k (ánh sáng đèn điện tử (flash)) cho màu trung thực, còn từ 4.5000k trở xuống (ánh sáng đèn vàng (đèn tóc tròn)) thì cho sắc vàng đỏ.
Căn cứ vào nhiệt độ mầu thì hiện trên thị trường có 2 loại phim: Phim có ký hiệu Daylight (phim chụp cho ánh sáng ban ngày tự nhiên, ánh sáng trắng) và Phim dùng cho đèn Tunsram (đèn có sắc thái vàng đỏ, bóng điện vàng) nên khi mua phim thì cần lưu ý cho đúng loại nếu không khi chụp sẽ sai mầu. khắc phục tình trạng này người ta chế tạo ra các kính lọc để chuyển đổi nhiệt độ màu của các nguồn sáng. VD: từ nguồn sáng có nhiệt độ màu 6.3000k sang 5.4000k hay từ 4.3000k thành 5.4000k.
Ánh sáng ngược, ánh sáng thuận:
Ánh sáng ngược là ánh sáng mà nguồn sáng được chiếu từ phía sau lưng của đối tượng chụp như mặt trời chiếu sau lưng chiếu lên. Ánh sáng thuận (hay xuôi sáng) là ánh sáng phát ra từ phía người chụp
Tiêu cự:
là khả năng phóng đại của ống kính, tiêu cự càng ngắn góc chụp càng rộng và ngược lại tiêu cự càng dài góc chụp càng hẹp.
Độ nét sâu của ảnh:
là khoảng nét tính từ vật chụp ra phía trước và phía sau vật được chụp. Khoảng nét này phụ thuộc vào độ mở và tiêu cự. Cửa sáng càng mở rộng độ nét sâu càng hẹp, càng khép sâu độ nét sâu càng lớn. Tiêu cự càng dài cho độ nét sâu càng hẹp và ngược lại. VD: Chụp phong cảnh đòi hỏi nét sâu nên ta dùng ống kính có tiêu cự ngắn và đóng hết ống kính. Chụp chân dung, để nổi bật chủ đề (xoá phông, làm nhoè phía sau chủ đề chụp) nên dùng ống kính có tiêu cự dài và mở hết ống kính.
Tốc độ chụp:
Là khoảng thời gian từ khi ta bấm máy chụp để màn trập mở ra đến khi màn trập đóng vào. Màn trập (hay cửa trập) được hiểu như cánh cửa của thân máy ảnh. Khi ấn nút chụp thì màn trập mở ra để nhận “thông tin” (là nguồn sáng mang “tín hiệu” của đối tượng chụp) đi qua ống kính ghi lại trên film, và khi buông tay khỏi nút chụp thì màn trập đóng vào. Tốc độ từ 1/15 trở xuống được gọi là tốc độ chậm, dùng chụp cảnh đêm, ánh sáng yếu hay tạo dòng nước chảy thành các dải lụa mờ. Khi chụp nên dùng chân máy và dây bấm chụp. Ký hiệu B trên vòng tốc độ là tốc độ chụp chậm theo ý muốn, cửa trập được mở cho đến khi nào ta bỏ tay khỏi nút chụp thì lúc đó cửa trập đóng. Tốc độ này rất thuận tiện khi chụp là pháo hoa.Tốc độ từ: 1/30 -1/125 là trung bình, từ 1/500 trở lên là cao, tốc độ cao dùng để bắt chết hình ảnh trong thể thao hay vật di động…. Ngoài ra trên vòng tốc độ còn các ký hiệu khác như hình bóng điện hay tia chớp đó là tốc độ “ăn đèn” của máy, nghĩa là tốc độ kể từ nó trở xuống máy luôn luôn cho chụp với đèn điện tử flash.
Thời chụp:
là sự phối hợp giữa tốc độ chụp và cửa điều sáng, chẳng hạn thời chụp 125-5,6 nghĩa là bức ảnh đó được chụp ở tốc độ 1/125, cửa sáng mở 5,6.
Ba yếu tố: tốc độ, cửa sáng, độ nhạy của phim có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, cứ tăng một nấc của yếu tố này thì phải giảm một nấc của yếu tố kia. Trong rất nhiều trường hợp người ta vận dụng mối tương tác này để tính cho đúng sáng như khi chụp đêm, chụp chồng hình….
VD: Một bức ảnh có thời chụp: 1/125-5,6 với ISO 100 là đúng sáng, ta có thể đổi thành các thời chụp sau mà vẫn đảm bảo đúng sáng như ban đầu: 250 – 4 – ISO 100, 500 – 2,8 – ISO 100 hoặc 125 – 4 – ISO 80, 125 – 8 – ISO 200
Bố cục ảnh
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/med323016.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/97407612.jpg)
Hạn chế chiều sâu của bức ảnh (Depth of Field – DOF) là một cách dễ dàng để tăng điểm nhấn của bức ảnh. Kỹ thuật này có thể không cần thiết áp dụng với mọi bức ảnh nhưng lại hữu ích khi bạn muốn làm giảm sự chú ý tới những chủ thể mà bạn muốn ẩn đi. Ứng dụng phổ biến nhất của kỹ thuật này là làm mờ (blur) đi hậu cảnh (background). Blur the background làm cho những background rối mắt trở nên êm ả hơn. Bạn có thể giảm thiểu hóa DOF trong những bức ảnh của bạn bằng cách sử dụng lens với độ mở (aperture) lớn (ví dụ F1.8), zoom cận cảnh (ví dụ như 70-200 zoom vào 135 hoặc 200), hoặc dùng những máy ảnh có sensor lớn (như những DSLR full frame)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/dreamstime_7307553.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/000000000181.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/iStock_000001843523Large.jpg)
Đưa chủ thể vào trung tâm của ảnh tạo ra sự cân bằng cho bức ảnh. Típ này có hiệu quả nhất với những bức ảnh đơn giản có chỉ một vài chủ thể.
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/dreamstime_7736897.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/dreamstime_748703.jpg)
Nguyên tắc này là một trong những cách hiệu quả và phổ biến nhất được sử dụng trong bố cục một bức ảnh. Bạn có thể dễ dàng cải thiện bố cục bức ảnh của bạn bằng cách sử dụng nguyên tắc này do mắt con người chú ý tự nhiên đến những điểm này khi xem một bức ảnh. Theo nguyên tắc này, bức ảnh sẽ trở nên cuốn hút hơn bằng cách đưa chủ thể chính mà bạn muốn nhân mạnh vào một trong bốn điểm giao nhau của những đường kẻ 3×3 tưởng tượng trên khuôn hình.
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/image_3.png)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/dreamstime_1355036.jpg)
Lead room là khoảng trống phía trước chủ thể (hướng mà chủ thể hướng tới). Típ này thường được sử dụng cùng với Rule of thirds để làm cho những bức ảnh hấp dấn hơn. Bằng cách để lại khoảng trống phía trước chủ thể, người xem sẽ như cảm thấy rằng chủ thể di chuyển về khoảng trông.
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/image_4.png)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/dreamstime_1453419.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/image_5.png)
S Curve là một đường S tưởng tượng trong một bức hình. Bố cục theo cách này làm những bức ảnh trông thú vị hơn nhờ việc dẫn dắt mắt người xem theo đường S tưởng tượng trong bức hình của bạn. S curve cũng có thể sử dụng trong việc tạo dáng (posing) để tăng khả năng biểu cảm/thể hiện của người mẫu
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/96395278.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/93754762.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/image_6.png)
Đa số các bức ảnh dành phần lớn cho trung cảnh (middleground) và hậu cảnh (background) và phần nhỏ cho tiền cảnh (foreground). Bạn có thể làm ảnh phong cảnh đẹp và ấn tượng hơn nhiều bằng cách thêm tiền cảnh và có một vài chủ thể trong tiền cảnh. Đây là một trong những kỹ năng được sử dụng để tạo ra cảm giác về độ lớn, chiều sâu bức ảnh và làm cho người xem đôi khi cảm thấy như thể anh ấy/ cô ấy đang ở trong bức ảnh.
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/image_7.png)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/96254048.jpg)
Khi bạn nghĩ bạn đã tiến đủ gần đến chủ thể, hãy thử tiến gần đến chủ thể hơn nữa. Bạn sẽ có thêm một bố cục/bức hình nữa bằng cách lấp đầy khoảng trống trong khuôn hình với chủ thể
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/image_8.png)
Đây là một cách sáng tạo để thêm tiền cảnh vào trong ảnh của bạn. Hãy sử dụng những vật thể quanh bạn để tạo khuôn hình ảo cho chủ thể trong bức ảnh của bảnh. Kỹ thuật này là một trong những cách tuyệt vời để làm tăng sự hấp dẫn của bức ảnh và làm cho một bức ảnh thực sự khác biệt so với những bức ảnh khác.
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/96669525.jpg)
![](http://photoshoptutorials.ws/images/stories/10TipstoImproveCompositioninYourPhotos_10D43/95934303.jpg)
Bokeh là gì
![Bad Bokeh](http://www.kenrockwell.com/nikon/18200/images/KEN_0193-bokeh.jpg)
![]() |
Fig. 1. Poor Bokeh. Đây là blur circle đã được phóng đại cho thấy bokeh tồi. Một blur circle phải làm sao cho điềm sáng out nét được render. Lưu ý cạnh được xác định sắc nét và rõ đều thế nào cho điểm có mục đích out nét, và tâm lại mờ. |
![]() |
Fig 2. Neutral Bokeh. Đây là blur circle sáng đều và hoàn hảo về kĩ thuật. Điều này không hẳn tốt cho bokeh, bởi vì cạnh vẫn xác định được. Các đối tượng out nét, dù là điểm sáng hay đường sáng, có thể tạo ra một cách hiệu quả các đường sắc nét hợp lý trong ảnh do các cạnh của blur circle sắc nét. Đây là blur circle từ lens hiện đại nhất được thiết kế gọi là “perfect”. |
![]() |
Fig. 3. Good Bokeh. Đây là thứ ta mong muốn. Điều này tuyệt vời cho bokeh vì cạnh hoàn toàn không xác định. Đây cũng là kết quả của cùng quang sai cầu, nhưng theo hướng ngược lại đối với ví dụ bokeh tồi trong Fig. 1. Đây là chỗ mà nghệ thuật và kỹ thuật bắt đầu phân tách, Khi bức hình nhìn tốt hơn lại là kết quả của sự không hoàn hảo. Bokeh hoàn hảo đòi hỏi phân bó hình trong mờ Gausian, và ống kính được thiết kế cho ví dụ trung tính như trong Fig. 2 phía trên. |
Mọi thứ lạ kỳ từ đây. Một yếu tố lớn khác là làm thế nào để bên ngoài của blur circle được render. Dẫu cho chúng ta có ký hiệu nghèo như ở hình 1, nếu viền ngoài được render nhẹ nhàng, như trong máy AF-S Nikkor 80-200 f/2.8, chúng ta sẽ có bokeh tốt.
Một cách nghệ thuật, nhiều người hướng đến thích cận cảnh sắc nét và hậu cảnh mờ nhẹ. Cận cảnh mờ ảo có xu hướng làm người ta rối trí, và hậu cảnh mờ ảo thì không sao. Do đó, tôi phân loại ống kính với bokeh tốt như là chúng với bokeh hậu cảnh tốt. Theo cá nhân, tôi tránh bất cứ thứ gì mờ ảo trong cận cảnh bằng cách di chuyển camera hoặc đối tượng cận cảnh.
Lí do mà bokeh được thoả luận trong nhiếp ảnh là vì chúng ta thích vùng out nét nhẹ nhàng hơn là rõ nét, điều đó dường như được sắp đặt, mặc dù mọi thứ out nét. Vì điều này, nó thích hợp hơn với những người muốn cùng out nét nhẹ nhàng có sự phân bố ánh sáng trong từng blur circle được tập trung thêm về phần trung tâm. Điều đó làm mỗi blur circle có xu hướng là một điểm sáng được làm mở dần về phía cạnh. Điều này làm tất cả các blur circle pha trộn độc đáo.
Mặt khác, nếu người ta cố gắng giữ mọi thứ sắc nét nhất có thể, hiệu ứng bokeh sẽ hoạt động khác đi ở chỗ hình ảnh của bạn gần với trong tầm focus. Nếu nghi ngờ, hãy thử xem. Ống kính phác hoạ rất nhanh trở nên rất lạ.
Không có thước đo cho bokeh, vì các nhà khoa học nhắm đến ví dụ tầm thường ở hình 2 như ống kính hoàn hảo của họ. Giống như mọi thứ khác trong nghệ thuật, bạn đánh giá bokeh bằng cách nhìn vào ảnh.
Một số cách chụp ảnh
1. Chụp ảnh ngoài trời với ánh sáng tự nhiên:
Ánh sang tự nhiên là nguồn sang lý tưởng để chụp hình, nhiệt độ mầu phù hợp vớI phim phổ thong ddang dung nên luôn cho mầu đúng sắc độ.
Tốc độ thường dùng:
- 30, 60 (trong bóng râm của trời không nắng, hoặc chiều tối).
- 125 (trong bóng râm của trời nắng) hoặc
- 250 của trời nắng nhẹ.
Không nên chụp dưới trời nắng gắt, chụp như vậy ảnh thường không nổi hết các chi tiết của đối tượng chụp. Nguồn ánh sang này dễ sử dụng nhưng nếu không cẩn thận khi chụp sẽ có hiện tượng ảnh bị lu mờ (không trong), tựa như có lớp sương mỏng phủ lên ảnh, hiện tượng này ngườI ta gọI là bị “halo”. Để tránh hiện tượng này nên chụp xuôi sáng, và sử dụng loa chống loá sáng, chụp hơi chúc máy xuống so với nguồn phát sáng .
2. Chụp ảnh ngoài trời phối hợp đèn flash:
Đôi khi ta chụp người đứng ngược vơí nguồn sang, Ví dụ chụp hình ngườI đứng ở giũa của, lựng quay ra ngoài sân, nếu không dùng đèn điện tử (flash) thì lúc đó hoặc là cảnh ngoài sân đúng sáng, mặt ngườI đen, hoặc là mặt ngườI đúng sáng còn cảnh ngoài sân lạI loá trắng do thừa sáng. Vậy để có búc ảnh mà cả 2 đốI tượng đó đều đúng sáng thì ta cần phốI hợp cùng lúc vớI đèn flash. Đầu tiên kiểm tra trên bảng hướng dẫn ở thân đèn xem vớI khoảng cách từ máy tớI ngườI được chụp thì cần mở ống kính là bao nhiêu, đặt cửa sáng ở dộ mở đó. Tiếp theo giữ nguyên cửa sáng, dùng đồng hồ đo sáng có trong máy rồI phốI hợp vớI tốc độ chụp để tìm ra vị trí đúng sáng cho đồng hồ đo đó (lưu ý, tốc độ máy phảI luôn nhỏ hơn tốc độ ăn đèn ghi trên máy), như vậy lúc này ta đã cân bằng được lượng sang giũa ánh sáng đèn điện tử và ánh sang trời. Ta cũng có thể phốI hợp tình huống này khi chụp ngườI ở trong phòng tốI để có thể kết hợp được cả những nguồn sang khác phát ra từ các bong đèn trong phòng. VớI những máy tự động (trừ máy du lịch) thì chỉ việc đặt cả máy và đèn chụp ở chế độ TTL là được.
3. Kỹ thuật chụp lia máy (Panning)
![](http://www.cbs.com.vn/forum/imagehosting/24bf2732aab44b.jpg)
Chủ đề trong bức ảnh của cách chụp này bao giờ cũng nổi bật ra khỏi phông nền vì nền phông phía sau luôn mờ nhoè, do vậy nội dung bức ảnh tập trung và cô đọng hơn. Mặt khác nền phông phía sau nhoè theo vệt nên nó tạo cho ta cảm giác là vật được chụp đang di chuyển với tốc độ cao. Đối tượng được chụp thường đang ở trong trạng thái chuyển động như người đi bộ, chạy, xe đạp, xe máy… đang đi…Thường có 2 trường hợp xảy ra trong cách chụp này.
a. Người chụp đứng yên tại chỗ còn đối tượng được chụp đang di chuyển.
Trường hợp này tốc độ chụp nên chọn là:
- 8 dùng cho người đi bộ (chụp những bà gánh hàng rong đang hốI hả vì sợ muộn buổI chợ sớm…),
- 16 cho người chạy và xe đạp đang đi,
- 30 cho xe máy đang chuyển động.
b. Cả người chụp và đối tượng được chụp đều di chuyển
như cùng ngồi trên 2 xe máy di chuyển cùng chiều. trong hoàn cảnh này cố gắng giữ đồng tốc giữa 2 xe, tốc độ chụp từ 30 đến 120.
Trong cả 2 trường hợp trên tốc độ chụp có thể dùng cao hơn nữa vẫn chụp được nhưng hiệu quả không cao, phông mờ nhoè ít. VớI lốI chụp này nên chọn tốc độ càng chậm càng tốt, ảnh càng đẹp hơn. Tốc độ chậm có khả năng gây mất nét nên để giảm bớt tình trạng này khi chụp nên chọn tiêu cự ngắn nghĩa là dùng ống kính góc rộng. Khi dùng tiêu cự này thì độ nét sâu của ảnh lớn, giảm bớt tình trạng mất nét khi chụp, đồng thờI cho phép ta dễ dàng nớI lỏng bố cục. Do phần vì đốI tượng chụp đang chuyển động dẫn đến khó bố cục chính xác, phần do đạI đa số máy ảnh đều có điểm ngắm nét nằm vào giữa khung hình nên chủ đề của bức ảnh chụp kiểu này thường nằm vào chính giữa, do vậy sau khi chụp xong thường phảI cắt cúp lạI ảnh, để cắt cúp được đẹp thì ngay khi chụp nên tạo sẵn khoảng trống trong bức ảnh đó, nghĩa là không nên bố cục chặt quá mà nớI lỏng ra 1 chút.
Nếu chụp vớI máy cơ thì nên xác định trước điểm chụp, ngắm vào đó lấy nét thờI chụp, bố cục rồI hướng máy về phía đốI tượng chụp đồng thờI rê máy theo đốI tượng đó cho tớI khi di chuyển đến điểm dịnh chụp (đã xác định trước) thì bấm chụp. ĐốI vớI các máy tự động lấy nét như Nikon f801, F90, F80….thì chuyển phần lấy nét về ký hiệu C (continue- luôn tự dộng lấy nét khi vật di chuyển). Lưu ý luôn luôn rê máy ngay cả khi đang bấm
4. Kỹ thuạt chụp đêm và chụp pháo hoa
a. Chụp đêm
Ánh sáng, mầu sắc của bóng đèn phản chiếu trên nền trời đêm thật lung linh huyền ảo, ai đã 1 lần cầm máy thì thể nào cũng có 1 lần thử chụp đêm. Thời điểm để chụp cảnh đêm đẹp nhất là lúc chạng vạng tối, khi ấy nền trời còn phảng phất 1 mầu xanh dịu, nhẹ khiến cho cây cối, hình khối nhà cửa vẫn in trên nền trời khiến cho bố cục thêm sinh động. Trong lúc đó thì ánh điện đường hay ánh đèn từ những ô cửa sổ cũng vừa được thắp lên tạo cho không gian bức ảnh 1 luồng sáng đều, không bị chỗ tối quá hay sáng quá, những vệt sáng vàng hay đỏ phát ra từ đèn ôtô, xe máy tạo nên những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, uốn lượn như muốn ôm lấy cả khung hình. Với thời khắc này thì hình ảnh thu vào khung hình thường rộng, dễ bố cục. nếu chụp lúc đêm xuống hoàn toàn thì nên bố cục “chặt” vì nếu lấy rộng ra sẽ có quá nhiều khỏang đen chiếm trong khung hình… Khi chụp đêm, ánh sáng phát ra từ những điểm sáng như đèn đường… thường có hình tia sao. Để những tia sao này càng dài thì ta cần phải khép chặt ống kính, thông thường tôi dùng f 8 hoặc 11. Càng khép chặt thì tốc độ càng chậm nên để tránh bị nhòe cần phải có chân máy và dây bấm mềm. (cách khác để có hình tia sao là lắp thêm kính lọc tia sao ở trước ống kính)
Việc chụp đêm với những máy tự động đo sáng thì rất đơn giản, chỉ việc kê chắc máy, lấy nét và bố cục rồi bấm là máy sẽ tự đo sáng cho chụp (những máy này tốc đọ chậm nhất trước B là 30s), riêng máy tự động loại du lịch thì không chụp đêm được vì lúc giơ máy lên đo sáng chụp máy sẽ tự động bật đèn điện tử (flash) và như vạy thì không thể chup được. Chụp bằng máy cơ thì hơi phức tạp hơn 1 chút, đòi hỏi người chụp phải biết chút ít về mối tương tác giữa 3 yếu tố: tốc độ chụp, cửa điều sáng và độ nhậy bắt sáng của phim (xem phần này ở bài “trở lại bài ABC về nhiếp ảnh”) . Khi chụp bằng máy cơ khi đưa máy lên đo sáng thì máy luôn báo “âm”, thiếu sáng không thể nào đo được cho đủ sáng. Lúc này thay vì để độ nhạy của phim ở giá trị phim đang sử dụng (ví dụ phim đang dùng là 100 ASA) thì ta thay đổi vòng điều chỉnh độ nhạy bắt sáng của phim theo chiều tăng cho tới khi nào đồng hồ đo sáng báo đủ sáng thì thôi, ví dụ lúc này là: độ nhạy bắt sáng = 800 Asa, tốc độ chụp 1/4, của mở sáng là 11. Theo như trên nói để có tia sáng hình sao ta giữ nguyên cử điều sáng ở f 11, như vậy chỉ còn 2 yếu tố thay đổi là Asa và tốc độ chụp mà 2 yếu tố này lại tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa là cứ tăng 1 khoảng giá trị ở yếu tố này thì sẽ giảm đỉ 1 khoảng y như thế ở yếu tố kia. Do vậy để giảm từ 800 Asa xuống 100 Asa cho đúng với giá trị thực tế của phim đang chụp thì ta sẽ phải giảm xuống 3 nấc (800, 400, 200, 100), đồng thời tăng 3 nấc cho tốc độ chụp từ 1/4 lúc này sẽ là (1/4, 1/2, 1s, 2s). Nghĩa là ta sẽ chụp ở tốc độ 2s, cửa mở sáng 11, phim 100 Asa. Có những trường hợp tốc độ chụp rất chậm xuống đến 8 hay 10s, lúc này trên vòng tốc độ sẽ không có những giá trị đó, khi chụp trong hoàn cảnh này ta đặt máy ở chế độ B và dùng dây bấm mềm để chụp. Tốc độ B là tốc độ cho ta bấm và giữ của mở sáng lâu bao nhiêu tùy ý, khi nào muốn đóng cửa sáng lại thì thả tay giữ nút bấm ra là cửa sáng đóng, do quá trình giữu nút bấm lâu như vậy nên ta cần phải dùng đến dây bấm mềm để tránh làm rung động máy. Vì những giá trị như 8 hay 10s không có trên thang chia của máy nên khi dùng ở tốc độ này ta nên có đồng hồ đeo tay để đo hoặc có thể ước lượng bằng cách đếm tù 1 đến 10 theo nhịp chạy của đồng hồ, giả sử có đếm quá lên chút ít cũng không sao vì cảnh đêm ánh sáng thường yếu không ảnh hưởng nhiều lắm khi ta chụp quá sáng.
b. Chụp pháo hoa thực ra chính là 1 phần của chụp đêm, nên cũng luôn cần chân máy và dây bấm mềm. Chụp pháo hoa khác với chụp đêm 1 chút ở thời điểm bấm máy. Nên cố gắng chụp pháo hoa ở ngay những quả bắn đầu tiên vì lúc này do mới bắn lên nên nền trời không có nhiều khói khiến cho bức ảnh trong hơn, còn giả sau này thì trời sẽ vẩn đục, ngả màu xám do bị khói quẩn in vào, nhất là hôm đó lại không có gió thì khói sẽ che mất pháo hoa.
Nếu chỉ chụp pháo hoa không mà không có cảnh phía dưới (chụp sau này để ghép sau) thì máy cơ không phải tính toán lằng nhằng như trên mà cứ giơ lên để tốc độ chụp ở B là sẽ được pháo hoa.
![](http://svol.ru/mkportal/modules/gallery/album/a_3174.jpg)
Nếu chụp cả cảnh ở phía dưới thì máy cơ vẫn phải tính toán như trên để có được hình ảnh đúng sáng cho phần cảnh phía dưới. Tuy nhiên khi chụp lại không bấm chụp đủ ngay thời gian chụp như ở phần chụp đêm, mà chỉ chụp 1 nửa thời gian đó, phần nửa còn lại sẽ chờ khi pháo hoa bắn lên thì chụp nốt, như vậy ảnh mới không bị quá sáng.
Cả máy cơ và máy tự động đo sáng (trừ máy du lịch) khi chụp pháo hoa đều nên sử dụng tốc độ B, với tốc độ này cho phép ta lựa chọn quả nào thích thì lấy, quả nào không thích thì thôi. Thế nào là lựa chọn, ví dụ như khi bắn vào dịp năm mới 2003 thì thế nào trên nền trời cũng sẽ có chữ 2003, vậy ta phải làm sao chỉ có chữ 2003 lọt vào mà không bị các bông khác lấn át Đây chỉ là 1 mẹo nhỏ rút ra trong quá trình chụp xin phổ biến lại cho các bạn. Trước khi chụp ngoài dây bấm mềm nên chuản bị sẵn 1 miếng vải mềm, dầy mầu sẫm, tốt nhất mầu đen hay tiện hơn cả là 1 chiếc mũ nồi mầu tối, vừa tránh sương gió đêm 30, vừa dùng luôn để chụp. Máy kê chắc chắn trên chân chụp, lắp dây bấm mềm, tháo bỏ nắp ống kính hướng đến nơi cần chụp, lấy bố cục, đặt nét ở vạch vô cực, cửa sáng để 8 rồi chụp mũ nồi lên ống kính, lúc này mũ nồi có nhiệm vụ thay nắp ống kính, bấm dây bấm mềm để chụp rồi giữ ngay lấy nó, nghĩa là lúc này máy đang ở chế độ chụp, màng chụp vẫn đang mở nhưng do có mũ nồi che ở ngoài nên không có hình ảnh nào lọt được vào phim. Ngồi đợi khi nào pháo hoa bắn lên nếu thấy ưng quả nào thì nhấc mũ nồi ra, lúc đó mới có hình ảnh ghi lên phim, khi nào thấy đủ không chụp nữa thì bấm thả dây bấm mềm để kết thúc bức ảnh đó. Cứ kiên trì chọn lựa như vậy ta sẽ loại được những quả xấu ra khỏi khung hình, ảnh chụp ra sẽ đẹp hơn, không bị rối rắm do có nhiều pháo hoa chồng chéo lên nhau. Tại sao không dùng ngay nắp ống kính để đậy mà lại dùng vải mềm vì nếu dùng nắp ống kính thì mỗi khi đậy nắp ống kính sẽ rất có thể ta làm rung máy và như vậy ảnh hưởng tới các chi tiết khác làm nó nhoè trong trường hợp ta chụp cả pháo hoa và cảnh ở phía dưới.
Friday, December 2, 2011
Chứng chỉ MCSA
Chứng chỉ MCSA là gì? |
![]() |
![]() |
![]() |
![](http://vnexperts.net/images/stories/mcsa1.jpeg)
Nhiều “track” và “specialization”
Trên website của Microsoft, MCSA (Microsoft Certified Systems Administrator) được giới thiệu là “chứng chỉ giúp nâng cao sự nghiệp của bạn thông qua việc khẳng định bạn có đủ kỹ năng để quản lý và chẩn đoán hỏng hóc những hệ thống chạy hệ điều hành Windows”. Nói nôm na, MCSA là chứng chỉ xác nhận khả năng quản trị mạng (của Microsoft). Hiện nay, bạn có hai chọn lựa về công nghệ (theo hệ điều hành): Windows 2000 hoặc Windows Server 2003.
Ứng với hai công nghệ nêu trên, bạn có hai “nhánh” (track) MCSA, mỗi nhánh yêu cầu những môn thi khác nhau. Mặc dù Microsoft vẫn công nhận “MCSA on Windows 2000”, nhưng có lẽ các bạn nên nhắm đến công nghệ mới hơn, vì bản thân chính Windows Server 2003 chẳng bao lâu nữa cũng trở thành “lạc hậu”. Do đó, chúng tôi không đi sâu giới thiệu “nhánh” cũ.
![](http://vnexperts.net/images/stories/mcsa2.jpeg)
Nhánh “MCSA on Windows Server 2003” có ba hướng: MCSA “tổng quát” (gọi tắt là MCSA), MCSA chuyên biệt về truyền tin (gọi là MCSA: Messaging), MCSA chuyên biệt về bảo mật (gọi là MCSA: Security). Những hướng chuyên biệt (specialization) nhằm xác định những kỹ năng thuộc một lĩnh vực chuyên sâu nhất định, đồng thời phục vụ nhu cầu thực tế đang cần những chuyên gia thông thạo các kỹ năng ấy.
![](http://vnexperts.net/images/stories/mcsa3.jpg)
Để lấy được chứng chỉ MCSA, bạn phải thi đậu bốn môn:
- Hai môn thuộc nhóm “Networking System”: gồm Exam 70–290 (Managing and Maintaining a Microsoft Windows Server 2003 Environment) và Exam 70–291 (Implementing, Managing, and Maintaining a Microsoft Windows Server 2003 Network Infrastructure).
- Một môn thuộc nhóm “Client Operating System”: là Exam 70–270 (Installing, Configuring, and Administering Microsoft Windows XP Professional).
- Một môn tự chọn (gọi là elective exam), bạn có thể chọn môn về ISA Server hoặc SQL Server hoặc Exchange Server đều được.
MCSA: Messaging yêu cầu bạn thi đậu bốn môn tương tự như MCSA “tổng quát”, riêng môn tự chọn thì bạn không được... tự chọn nữa, mà phải thi Exam 70-284 (Implementing and Managing Microsoft Exchange Server 2003). Chứng chỉ này xác nhận bạn không chỉ đủ khả năng của một MCSA mà còn thông thạo về máy chủ phục vụ thư điện tử (mail server).
Riêng anh chàng MCSA, Security đòi hỏi nhiều hơn: bạn phải thi năm môn, trong đó ba môn đầu giống MCSA. Hai môn “tự chọn” phải là: Exam 70-299 (Implementing and Administering Security in a Microsoft Windows Server 2003 Network) và Exam 70-227 (Installing, Configuring, and Administering Microsoft Internet Security and Acceleration Server 2000). Quả thật cụm từ “môn tự chọn” không còn đúng trong trường hợp này nữa.
Nhu cầu thực tế về MCSA
Nhiều bạn rất bối rối trước một rừng thông tin về chứng chỉ của Microsoft. Xin nói ngay, nếu bạn quan tâm đến lĩnh vực quản trị mạng thì chỉ cần tìm hiểu về MCP (mạng), MCSA và MCSE. Khi bạn thi đậu môn đầu tiên (để đạt được MCSA hay MCSE), bất kể đó là môn nào, bạn cũng được công nhận là MCP. Như vậy, cấp độ MCP không đủ cho những người thật sự quản trị một/nhiều mạng quy mô vừa và lớn.
Mặc dù đa số các bạn khi theo học đều muốn “đi đến cùng” – tức trở thành MCSE – nhưng điều đó không cần thiết cho số đông. Công việc hiện nay mà các nhà tuyển dụng đang cần nhiều đòi hỏi kỹ năng của MCSA, và khả năng ấy là “đủ xài”. Thực tế chỉ cần một số lượng MCSE không lớn, vì các doanh nghiệp cần người “quản trị” nhiều hơn là người “thiết kế” mạng.
Chứng chỉ CCNA
Cisco System - Các chứng chỉ CCNA-CCNP-CCIE là gì?
CCNA - viết tắt của Cisco Certified Network Associate - Chứng chỉ CCNA xác thực khả năng: Cài Đặt, Vận Hành, Bảo Trì Cơ Sở Hạ Tầng Mạng ở qui mô vừa và nhỏ trên thiết bị của Cisco.
CCNP - viết tắt của Cisco Certified Network Professional - Chứng chỉ CCNP xác thực khả năng: Cài Đặt, Vận Hành, Bảo Trì Cơ Sở Hạ Tầng Mạng ở qui mô lớn trên thiết bị của Cisco.
Ngoài ra còn có CCIE viết tắt của Cisco Certified Internetwork Expert.
Để có chứng chỉ CCNA, thí sinh cần vượt qua kỳ thi có mã số 640-801 do Cisco tổ chức.
Để có chứng chỉ CCNP, thí sinh cần phải có chứng chỉ CCNA và thi thêm 4 modules chuyên đề: BSCI (về định tuyến), BCMSN (chuyên về switch lớp 2), BCRAN (cũ) chuyên về remote access bây giờ Cisco đôi tên là ONT và cuối cùng là CIT (cũ) chuyên về Troubleshooting hệ thống mạng bây giơ Cisco đổi tên thành ISCW.
Các chứng chỉ CCNA, CCNP do Cisco cấp có giá trị Toàn Cầu. Hồ sơ học tập của Thí sinh được lưu trữ tại Web site của Cisco, có thể truy cập trực tuyến.
VỀ CHỨNG CHỈ CCNA:
CCNA là một trong số 3 chứng chỉ quan trọng của một nhà quản trị hệt thống mạng do hãng Cisco System - một nhà cung cấp các giải pháp và thiết bị mạng lớn nhất thế giới cấp.
3 chứng chỉ quan trọng là CCNA, CCNP, CCIE. Ngoài ra còn một số chứng chỉ chuyên đề khác nữa như CCDA, CCDP ( chuyền về thiết kế hệ thống cơ sở hạ tầng), CCIE-SP ( chuyên về hệ thống mạng của các ISP ), CCSP (chuyên về bảo mật), CWNA (chuyền về mạng không dây Wireless) và một vài chứng chỉ khác nữa "nhiều quá he :D"
CCNA là cấp độ đầu tiên và cũng là cấp độ quan trọng nhất. nó là nền tảng cơ bản để học tiếp lên các chứng chỉ cao hơn.
1. Về kiến thức thì CCNA cung cấp cho bạn những kiến thức cơ bản nhất về mạng LAN, MAN, GAN, WAN.
giúp bạn có những hiểu biết căn bản về cách thức để một mạng máy tính có thể hoạt động được .Bạn sẽ có kiến thức về những giao thức truyền thông trên mạng như OSPF, BGP, RIP, IGRP, EIGRP, IS-IS..., về các mô hình như OSI, TCP//IP…cách cấu hình những thiết bị mạng của Cisco như Swiches, router. Các thiết kế một hệ thống mạng cho một cơ quan một xí nghiệp, trường học, bệnh viện… quy mô vừa và lớn.khi học bạn sẽ được tiếp xúc và cấu hình trực tiếp trên các thiết bị thật của cisco. Nói chung là sau khi học xong CCNA thì bạn có khả năng quản lý một hệ thống mạng của một doanh nghiệp. tất nhiên điều này còn phụ thuộc rất nhiếu vào khả năng của bạn nữa.
2. CCNA là một cấp độ đầu tiên sau đó là CCNP
ở cấp độ này thì bạn sẽ tập chung đi sâu vào từng vấn đề của lĩnh vực mạng.ko chung chung như CCNA.
ở cấp độ này thì phần lớn là những người sau khi đi làm rồi thì mới học tiếp lên.ở VN thì số lượng CCNP cũng không nhiều lắm vì học CCNP vừa tốn tiền vừa không phải là dễ dàng, có thể nói là một quá trình học rất khắc nghiệt.
Tiếp theo là CCIE. Đây là chứng chỉ cao cấp nhất của Cisco,để đạt được chứng chỉ này thì quả thật ko phải là điều dễ dàng, nó không chỉ đòi hỏi một trình độ uyên bác, một kiến thức chuyen sâu về mạng mà còn đòi hỏi một sự đầu tư rất lớn về thời gian và tiền bạc.Với lại thi chứng chỉ CCIE thì bạn phải ra nước ngoài mới thi được. Hiện nay ở VN chưa có nơi nào đủ khả năng để tổ chức kỳ thi này.có thể nói số lượng CCIE hiện nay ờ VN rất ít có lẽ không đến 100 người.
3. Về vấn đề học tập thì các trung tâm đào tạo quản trị mạng chủ yếu tập chung ở HN và TPHCM. học phí cho chứng chỉ này khá cao nhất là những chương trình đào tạo quốc tế.một khóa học kéo dài khoảng 3-4 tháng tùy trung tâm thì học phí+ lệ phí thi QT ~ học phí 4 năm đại học
hiện nay ở TP HCM có khá nhiều trung tâm đào tạo quản trị hệ thống mạng về cisco như : trung tâm tin học DHKHTN, saigon CTT, VNpro, nhất nghệ,athena…với mức học phí khác nhau và tất nhiên chất lượng cũng…ko giống nhau. Very Happy Tiền nào của ấy Very Happy . Và lệ phí thi lấy chứng chỉ quốc tế chung là 150$ / một module. Còn đối với cấp độ CCIE thì lệ phí thi cho CCIE written là khoảng 3tr VND và CCIE lab phải sang nước ngoài thi, nên sẽ rất mắc.
Bài viết này chỉ là những hiểu sơ đẳng của mình. bạn nào biết thêm nhiều thì vào đây đóng góp. bạn nào chưa rõ chỗ nào hay cần giải thích gì thì có thể đặt câu hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp, mình sẽ cố gắng trả lời.
Thursday, December 1, 2011
Ống Kính Pentax
Thuật ngữ ống kính Pentax
- M42: Ngàm ống kính răng xoay cho máy ảnh SLR 35mm, nó được Pentax dùng đầu tiên cho các máy ảnh của mình khi giới thiệu tại Mỹ, dù nó được làm ra bởi Carl Zeiss vào năm 1938
- K : là ngàm ống kính thế hệ đầu tiên. Chỉ lấy nét và điều chỉnh vòng khẩu độ bằng tay.
- M : là ngàm ống kính thế hệ thứ hai, có kích thước nhỏ hơn so với ngàm K. Giống như ngàm K, nó chỉ cho phép lấy nét và điều chỉnh vòng khẩu độ bằng tay.
- A : Loại ống kính, cho phép tự động điều khiển độ mở ống kính bởi máy ảnh, tuy nhiên vẫn lấy nét bằng tay.
- F : Loại ống kính, thế hệ đầu tiên cho phép tự động điều khiển độ mở ống kính và tự động lấy nét bằng máy ảnh
- FA : Loại ống kính, thế hệ thứ hai cho phép tự động điều khiển độ mở ống kính và tự động lấy nét bằng máy ảnh. Ống kính có chíp bên trong, chứa dữ liệu MTF cho máy ảnh tương thích với chế độ chụp “Hyper Program” (giống chế độ P trên máy Canon hay Nikon)
- FA-J : Giống như ống kính FA, nhưng không có vòng chỉnh khẩu độ.
- DA : Ống kính cho máy kỹ thuật số, không có vòng chỉnh khẩu độ. Ống kính được cải tiến thành phần chất liệu và có nhiều lớp phủ bề mặt ống kính, có tính năng giảm hiệu ứng “images circle”
- D-FA : Ống kính cho máy kỹ thuật số, có vòng chỉnh khẩu độ. Dành cho dòng máy 35mm (full frame). Ống kính được cải tiến thành phần chất liệu và có nhiều lớp phủ bề mặt ống kính,
- * (star) lens : Ống kính có dấu sao “*” là ống kính cao cấp và chất lượng cao (giống dòng ống kính L của Canon), có trên các ống kính dòng A, F và FA
- DA* : Ống kính cao cấp cho máy ảnh KTS Pentax, chất lượng cao, có lớp dán bảo vệ bụi và chống thấm nước, sử dụng motơ SDM (Super Sonic Direct drive Motors)
- Limited : Là ống kính có tiêu cự cố định, sử dụng thành phần chất liệu cao cấp được làm bằng tay cho chất lượng hình ảnh cao nhất.
- AL : Ống kính có dùng thành phần thấu kính phi cầu (aspherical elements) để nâng cao chất lượng, đặc biệt tăng độ nét trên ống kính góc rộng.
- ED : Ống kính dùng thành phần thấu kính phân tán thấp để giảm hiện tượng sắc sai
- IF : Ống kính dùng kỹ thuật lấy nét nội biên (đầu ống kính không ra vào khi lấy nét)
- SDM : Loại động cơ bên trong ống kính có tính năng tự động lấy nét, êm ái và chính xác.
- Fixed Rear Element Extension (FREE) : Loại ống kính, toàn bộ thành phần thấu kính nằm sau cùng luôn cố định, khi lấy nét.
- SMC : Là một kỹ thuật chỉ lớp phủ ống kính của Pentax
- Quick Shift : Cho phép tinh chỉnh độ nét bằng tay sau khi chức năng lấy nét tự động hoàn tất việc lấy nét.
- PZ : Cho phép zoom tự động thông qua các điểm giao tiếp điện tử trên ống kính bởi máy ảnh. Chức năng này chỉ hoạt động với ngàm KAF-2, và cho các dòng máy ảnh FSLRs hay máy K10D của Pentax
Thông tin trên được trợ giúp từ trang web của Bojidar Dimitrov nói về các tiêu chuẩn thiết bị của Pentax
CÁC LOẠI ỐNG KÍNH
1. Các ống kính tiêu chuẩn (Normal lens)
Các ống tiêu chuẩn thường ngắn, gọn nhẹ và có góc chụp tương đương mắt con người. Ống loại này cũng thường có độ mở lớn (chỉ số f/ nhỏ), thường là f/1.4 hay f/1.8 nên chụp được ở điều kiện ánh sáng yếu. Các ống tiêu chuẩn cho thân Pentax:
- Pentax FA 35mm f/2.0 AL – (tương đương 52.5mm), ống chụp cực nét
- Pentax DA 40mm f/2.8 Limited – (tương đương 60mm), tương đối nhanh, gọn nhẹ
- Pentax FA 43mm f/1.9 Limited – (tương đương 64mm), thiết kế cho thân toàn khổ và khẩu độ mở lớn.
- Pentax FA 31mm f/1.8 AL – (tương đương 46mm), a great lens from the film era, but ridiculous overkill for a small sensor camera with a tremendous waste of glass. Ống rất tốt cho máy phim, nhưng lắp lên thân máy số kém hiệu quả vì không tận dụng được khẩu độ mở
- Sigma 30mm f/1.4 EX DC dành cho Pentax và Samsung (tương đương 45mm) – phù hợp chụp điều kiện thiếu sáng không có đèn flash
2. Các ống góc rộng kết hợp ống phóng xa tele zoom (Wide-to-Telephoto Zoom Lenses)
Các loại ống này thường bán kèm thân máy có chất lượng trung bình và giá cả phải chăng. Ống cho phép chụp cơ động ở tầm chụp nhất định
- Pentax DA* 16-50mm f/2.8 ED AL IF SDM – (tương đương 24-75mm) – là một ống zoom chất lượng khá cao, có khẩu độ mở lớn và áp dụng công nghệ SDM giúp căn nét nhanh, êm và chính xác. Hình ảnh có độ tương phản tương đối tốt, rõ nét và có độ nét đồng đều trên toàn khuôn hình
- Pentax DA 16-45mm f/4.0 ED AL – (tương đương 24-67.5mm), khẩu độ mở không lớn lắm, tương đối cơ động
- Pentax DA 18-55mm f/3.5-5.6 AL – (tương đương 27-82.5mm), ống bán kèm máy tiêu chuẩn, chụp tốt trong điều kiện ngoài trời và ánh sáng ban ngày có nắng
- Pentax DA 18-55mm f/3.5-5.6 AL II – Cải tiến về chất lượng hơn Pentax DA 18-55mm f/3.5-5.6 AL
- Pentax DA 18-250mm – (tương đương 27-375mm).
3. Các ống góc rộng có phóng to thu nhỏ (Wide-angle Zoom Lenses)
- Pentax DA 12-24mm f/4 ED AL (IF) – (tương đương 18-36mm), sự lựa chọn chuẩn xác cho nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp
- Pentax DA 10-17mm f/3.5-4.54 ED (IF) Fisheye – (tương đương 15-32.5mm), ống mắt cá cho hình ảnh phóng đại lồi ra và hiệu ứng biến dạng tuyệt đẹp ở rìa khuôn hình
- Pentax FA J 18-35mm f/4-5.6 – (tương đương 27-52.5mm), ống kết hợp góc rộng và tiêu chuẩn có giá rẻ
Ba ống kính cho máy Pentax DSLR
4. Ống phóng chụp xa (Telephoto Zoom Lenses)
- Pentax DA* 50-135mm f/2.8 ED IF SDM – (tương đương 75-202.5mm), 685g, the function of a standard full-frame 70-200/2.8 lenses at less than half the weight (Canon’s 70-200/2.8 is a shoulder-breaking 1470g); Canon and Nikon should be ashamed of themselves for not making a lens like this for their small sensor bodies.
- Pentax DA 50-200mm f/4-5.6 ED, $164 (review), (tương đương 75-300mm), 260g, longer reach and much lighter weight at the cost of two f-stops in light-gathering ability; bring a tripod unless you’re going to use this in bright sunlight.
cheap slow low-quality lenses from Pentax’s film years
- Pentax FA-J 28-80mm f3.5-5.6 AL, $50, (tương đương 42-120mm on a full-frame camera), this provides an unusual normal-to-telephoto range.
- Pentax FA-J 75-300mm f/4.5-5.8 AL, $125, (tương đương 112.5-450mm), potentially useful for wildlife photographers on a budget, as long as the wildlife is standing in very bright sunlight.
5. Các ống góc rộng thượng hạng (Wide-angle Prime Lenses)
Các ống góc rộng cho phép chụp gần chủ thể nhưng vẫn cho bố cục hậu cảnh rộng. Đối với các thân máy số Pentax lắp cảm biến cúp nhỏ, các ống tiêu cự khoảng 16mm có thể được coi là ống góc rộng.
- Pentax DA 14mm f/2.8 ED (IF) – (tương đương 21mm), chất lượng cao, tương phản cao và có căn nét trong
- Pentax DA 21mm f/3.2 AL Limited, $410 – (tương đương 31.5mm), ống cực nhẹ và mỏng, góc chụp không hoàn toàn rộng (ống này có góc chụp giống các ống gắn trên máy du lịch)
6. Các ống chụp xa thượng hạng (Telephoto Prime Lenses)
Các ống chụp xa (telephoto) thượng hạng cho chất lượng hình ảnh tuyệt vời ở tiêu cự lớn do kết hợp giữa khẩu độ mở lớn và khả năng phóng đại chủ thể lớn, phù hợp với điều kiện ánh sáng kém và chủ thể ở xa.
- Pentax A 50mm f/2.0 – (tương đương 75mm), căn nét thủ công, phù hợp chụp đa năng và chụp chân dung chất lượng cao
- Pentax FA 50mm f/1.4 – (tương đương 75mm), phù hợp chụp chân dung
- Pentax DA 70mm f/2.4 Limited – (tương đương 105mm), mỏng và nhẹ
- Pentax FA 77mm f/1.8 Limited – (tương đương115mm), đặc biệt phù hợp chụp chân dung trên các máy phim 35mm. Khẩu độ mở lớn cho phép xóa phông cực tốt.
- Pentax 200mm f/2.8 – (tương đương 300mm), ống tele cự ly tương đối
- Sigma 300mm f/2.8 EX DG dành cho Pentax và Samsung – (tương đương 450mm), có thể tăng tiêu cự sử dụng ngoàm chuyển đổi (teleconverter)
- Ngoàm chuyển đổi Sigma 1.4x Teleconverter dành cho Pentax – tăng tiêu cự lên 1.4x, tiêu cự 300mm sẽ thành 420mm, cho hình ảnh tương đối rõ nét khi lắp với một số ống kính, đặc biệt với ống 300mm f/2.8 nhưng sẽ cho khẩu độ mở nhỏ hơn 2 khẩu (f-stop)
- Ngoàm chuyển đổi Sigma 2x Teleconverter cho Pentax – tăng gấp đôi tiêu cực nhưng cho độ tương phản thấp và giảm khẩu độ mở đi 2 khẩu, nhưng vẫn hữu dụng khi chụp trong điều kiện ngoài trời nắng
Ghi chú: Pentax không sản xuất các ngoàm chuyển đổi chụp xa cho các ống căn nét tự động.
7. Các ống cận cảnh phóng to (Macro Lenses)
Các ống cận cảnh phóng to cho phép chụp phóng to các đối tượng rất nhỏ. Ống có tiêu cự càng dài cho phép người chụp đứng càng xa đối tượng muốn chụp, thuận lợi khi chụp các loại côn trùng vì không làm chúng hoảng sợ bay hay chạy mất và người và máy không che mất ánh sáng của đối tượng đang chụp. Các ống cận cảnh có tỷ lệ 1:1 cho phép chụp đầy khuôn hình các đối tượng bằng kích thước cảm biến cúp nhỏ (APS-C) trên thân máy số Pentax (tức là 23 x 16mm). Các ống này cũng có thể chụp xa và cho phép căn nét ở vô cùng.
- Pentax DA 35mm f/2.8 Macro Limited – (tương đương to 52.5mm).
- Pentax DFA 50mm f/2.8 Macro – (tương đương 75mm), goes down to 1:1.
- Pentax DFA 100mm f/2.8 Macro – cho tỷ lệ 1:1, tương đương 150mm (nên cũng có thể xếp vào lại chụp xa)
Liệt kê ống kính Pentax:
DA* 16-50mm; DA* 50-135mm; DA* 60-250mm; DA* 55mm; DA* 200mm; DA* 300mm; DA 10-17mm; DA 12-24mm; DA 16-45mm; DA 17-70mm; DA 18-55mm II; DA 18-250mm; DA 50-200mm; DA 55-300mm; DA 14mm; DA 21mm Limited; DA 35mm Macro Limited; DA 40mm Limited; DA 70mm Limited; D FA 50mm Macro; D FA 100mm Macro; FA 50mm f/1.4; FA 31mm Limited; FA 43mm Limited; FA 77mm Limited
(Dịch bởi BTV trang web vnolas.com)
Sunday, October 9, 2011
Ý tưởng kinh doanh
Tổ tiên có câu:"Phi thương bất phú"
Chúng ta thường đặt câu hỏi:" Tôi muốn có tiền, tôi muốn kinh doanh?"
Nhưng kinh doanh gì? Thì người bình thường lại không làm được.
Nó cũng như câu chuyện đi tìm trí khôn của con cọp trong truyện mà hầu hết ai cũng được đọc từ thủa bé. Và không ít người trở thành con cọp.
Vậy ý tưởng kinh doanh lấy ở đâu ra? Thật không đơn giản! Tất nhiên, câu chuyện làm giàu không đơn giản như vậy. “Biết ý trời, đời chẳng khó”, nhưng đã mấy ai đoán được ý trời?
Tôi chỉ chắc chắn một điều, sẽ có khối người Việt lẽ ra đã giàu hơn bây giờ rất nhiều, và thừa tiền để mua siêu xe đắt nhất thế giới nếu 13 năm trước đây, họ có 10 USD, và đầu tư cả 10 USD đó vào Google - công ty công nghệ được thành lập ngày 7/9/1998, với số vốn đầu tư ban đầu chỉ vẻn vẹn 1 triệu USD.
Để sau 13 năm, đến ngày hôm nay trị giá của Google vào khoảng 170 tỷ USD (trang tin Yahoo! Finance ngày 15/7/2011), tức gấp khoảng 170.000 lần so với vốn đầu tư ban đầu, và 10 USD đầu tư ban đầu đó sẽ có trị giá khoảng 1,7 triệu USD. 10 USD, một số tiền quá nhỏ với bạn, với tôi, với rất nhiều người. Khoản tiền này nhỏ đến mức chắc hẳn chẳng một ai băn khoăn khi quyết định đầu tư.
Vấn đề là khi đó, có mấy ai đủ lòng tin đặt vào ý tưởng kinh doanh xem chừng viển vông là chắp nối các trang web trên toàn thế giới của Larry Page và Sergey Brin - hai chàng trai trẻ đã sáng lập Google - khi trước mắt còn đầy rẫy các cơ hội kinh doanh "tiền tươi thóc thật" khác?
Quả thật, ý tưởng là vàng, thậm chí còn quý hơn vàng nữa cho mỗi chúng ta, và cho mỗi người ước mộng trở thành doanh nhân.
Cái họ luôn kiếm tìm, chỉ là một ý tưởng kinh doanh khả thi và tiềm năng. Không ít doanh nhân trong lúc làm việc, hay lúc trà dư tửu hậu đã tâm sự, ý tưởng kinh doanh là thứ duy nhất họ khao khát trong lúc này.
Với suy nghĩ, với con mắt của một chuyên gia marketing, họ luôn nghĩ rằng, ý tưởng có thể nảy sinh bất kỳ nơi đâu, với bất kỳ ai, nếu chúng ta thực sự đam mê, và có sự nhạy cảm kinh doanh nhất định.
Còn trong mỗi chúng ta đều có một nguồn vốn không giới hạn, đó là sự sáng tạo. Và cơ hội kinh doanh luôn mở ra với bất kỳ ai có ý tưởng, và sẵn sàng chấp nhận rủi ro, để biến ý tưởng thành hiện thực.
Thật hạnh phúc nếu biết đầu tư đúng lúc, đúng nơi như Google để có cơ hội trở thành tỷ phú. Nhưng, có lẽ cũng vui không kém, khi mỗi chúng ta có cơ hội được nhìn thấy trái ngọt, dù còn khiêm tốn, từ ý tưởng kinh doanh của chính bản thân mình.
Thử hỏi bao nhiêu người dám nghĩ, dám làm, dám đánh đổi để thực hiện ý tưởng của mình?
-trích VNEconomy-
Friday, October 7, 2011
Ông chủ Seven A.M
Ông chủ Seven A.M.: ‘Chứng khoán suýt giết chết tôi’
Không chỉ nổi tiếng với những vai đầu gấu trên màn ảnh, Hải Anh còn là ông chủ của hệ thống cửa hàng thời trang Seven A.M. Để có được ngày hôm nay, ít người biết rằng anh từng sống dở chết dở vì chứng khoán và những nước cờ thiếu kinh nghiệm.
Vinh - nhục đều từ chứng khoán
- Được biết anh từng có một thời rất oai phong, lẫm liệt với cổ phiếu?
- Đúng thế! Cách đây 3, 4 năm, khi thị trường chứng khoán Việt Nam hưng thịnh, tôi cũng như bao người khác, dồn tất cả tiền bạc vào cổ phiếu, chơi những cú được ăn cả ngã về không. Hồi đó, ngày ngày, tôi chăm chú theo dõi tấm bảng điện tử để xem xanh đỏ như thế nào. Nói là chơi cờ bạc thì không đúng nhưng thực sự, cổ phiếu giống như một canh bạc. Lúc đó khoản lợi nhuận khổng lồ đã khiến tôi mờ mắt. Đã có lúc tôi nghĩ mình là thiên tài vì kiếm tiền nhanh quá. Chỉ sau một đêm đã lãi được hàng tỷ đồng.
- Thời điểm đó có không ít người “chết đi sống lại” vì cổ phiếu…
- Tôi cũng vậy thôi, sau chiến thắng là… chiến bại! (Cười) Hôm qua lãi 10% số tiền đầu tư thì ngày mai có khả năng lỗ 10% rồi 20% hay nhiều hơn thế chỉ trong chớp mắt. Nhưng tôi gan lỳ, lỗ tới 90 rồi 95% mà vẫn nhất định “ôm” với hy vọng ngày mai, vận may sẽ mỉm cười với mình.
Cuối cùng, mọi chuyện nằm ngoài dự tính của tôi hoàn toàn. Thất bại lần đó thực sự đã dồn tôi vào chân tường, tiền vốn cạn kiệt sạch, chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Lúc đó tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều. Ở cái tuổi 35, 36, tôi không thể lại tiếp tục đi làm thuê kiếm 5 hay 10 triệu một tháng. Người hiểu thì có thể trả lương mình cao hơn một chút nhưng người không hiểu thì sẽ nói mình là thằng nghệ sĩ lông bông, chẳng làm được gì. Thế nên tôi quyết định lại bước chân vào con đường kinh doanh.
![]() |
- Vậy tại sao anh quyết định chọn thời trang mà không phải ô tô hay điện thoại hoặc bất động sản, những thứ đó sinh lãi nhanh hơn thời trang?
- Tôi đã cân nhắc rất nhiều trước khi quyết định. Cuối cùng tôi vẫn chọn thời trang vì đó là thứ tôi đã có một thời gian dài gắn bó và đã hiểu rõ mọi ngóc ngách trong nghề.
- Con đường tìm lại vinh quang hẳn rất gập ghềnh?
- Ở đường cùng, ý chí vươn lên của con người cực kỳ mạnh mẽ. Tôi giống như người sắp chết đuối, cố gắng vùng vẫy để tìm đường sống. Ở thời điểm đó tôi bỏ hết những gì râu ria, những gì mang tính chất giải trí để dồn tất thời gian cho công việc. Suốt một thời gian dài, tôi không biết bạn bè, "cà-phê cà pháo" hay nhậu nhẹt là gì. Tôi làm việc quần quật từ 16 đến 18 tiếng trong một ngày với quyết tâm tìm lại đường sống cho mình.
![]() |
Phải biết đi làm thuê
- Ở thời đại bùng nổ này, nhiều bạn trẻ vừa ra trường đã mở công ty với tham vọng làm chủ chứ không chịu làm thuê. Anh nghĩ gì về trào lưu này?
- Đó không hẳn là quyết định sáng suốt. Theo quan điểm của tôi, chỉ có khoảng 1% trong số những bạn trẻ đó thành công. Đó chắc chắn là những người xuất sắc, những tinh tú của giới kinh doanh. 99% còn lại là “sập tiệm”. Mới tốt nghiệp, các bạn trẻ nên đi làm thuê trước. Khi đã có kinh nghiệm rồi thì hãy quyết định xem mình sẽ làm cái gì, kinh doanh cái gì. Không nên thấy mọi người làm cái này cái kia thì mình a dua làm theo.
- Nhưng mỗi lần vấp ngã cũng đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá mà?
- Đúng nhưng ở cái tuổi còn trẻ, vốn liếng chưa có nhiều, vấp ngã sẽ làm các bạn cụt vốn. Từ đó dễ nảy sinh tâm lý chán nản, sai một ly đi ngàn dặm. Theo tôi, làm thuê là cách tốt nhất chúng ta hiểu rõ những ngóc ngách, tránh mắc phải sai lầm của các hãng trước đó, giảm bớt được “học phí”. Bản thân tôi cũng từng bôn ba làm thuê hàng chục năm ở Nga, Ukraina và Việt Nam rồi mới dám tách ra làm riêng. Có những người sinh ra là làm chủ ngay nhưng có những người như mình thì sinh ra để làm thuê, rồi nhờ quá trình tích lũy kinh nghiệm, vốn liếng để trở thành người chủ sau này.
Hơn sáu năm làm thuê trong ngành thời trang, tôi đã ngồi ở những vị trí chủ chốt của các hãng thời trang lớn nên khi “ra riêng” xây dựng Seven A.M., tôi mới không “dính” phải những sai lầm mà các hãng trước đó đã mắc phải.
![]() |
- Nhiều bạn trẻ vừa thất bại ở việc kinh doanh thời trang đã “nhảy” sang kinh doanh thứ khác. Đó có phải lựa chọn khôn ngoan?
- Không hề! Tỷ lệ thành công của những người thích “nhảy” như thế chắc chỉ xấp xỉ 1 – 2% mà thôi. Bạn nên biết rằng khi chuyển sang lĩnh vực khác, bạn sẽ phải học hỏi lại từ đầu, phải “đóng thêm” một khoản học phí không nhỏ khác. Từ đó, tốc độ cụt vốn càng nhanh. Mọi chuyện càng khó khăn hơn.
Thêm vào đó, các bạn cũng không nên quá ham hố kinh doanh đa ngành đa nghề. Cứ nhìn vào Lehman Brothers thì rõ, đế chế tài chính hơn 100 năm mà cũng có ngày sụp đổ đấy thôi? Chúng ta không thể chạy theo cách làm của các tập đoàn lớn ngay được, phải đứng vững ở một lĩnh vực nào đó rồi mới tìm kiếm ở những lĩnh vực khác. Chậm mà chắc là tốt nhất!
Seven A.M được diễn viên Hải Anh “sinh hạ” vào ngày 1/4/2009. Từ một cửa hàng nho nhỏ, xinh xinh, tới nay, Hải Anh đã có một hệ thống với 10 cửa hàng trên toàn quốc. Anh chia sẻ: “Đừng nghĩ chỉ có Hà Nội hay TP.HCM mới bán tốt thời trang cao cấp. Chính những khách hàng ở các thành phố nhỏ còn “sành điệu" hơn các thành phố lớn nhiều”. |
Lâm Anh
Theo Bưu Điện Việt Nam
Monday, September 12, 2011
Thất bại bạc tỷ của bầu Hiển
Tin vào sự trợ giúp tới 70% của ông Trời, bầu Hiển âm thầm làm việc và thỉnh thoảng làm quả sốc, khi là thương vụ thành công trong kinh doanh, lúc vinh danh trên sân cỏ.
Ông Đỗ Quang Hiển là Chủ tịch Tập đoàn T&T, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Ông không chỉ được biết đến với những thương vụ đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp, tài chính, bất động sản mà còn gây "ồn ào" trong đời sống bóng đá Việt mấy năm qua bởi sự mạnh tay chi tiền và có phần hơi... kỳ bí của mình. Chẳng biết từ khi nào, giới mê bóng đá gọi ông bằng cái tên đầy thân mật - bầu Hiển.
Bầu Hiển lúc nào cũng tươm tất. Mọi người ấn tượng ông ở thái độ nhỏ nhẹ, bình tĩnh trong công việc, hầu như chưa bao giờ trên sân cỏ thấy ông phấn khích thái quá hay vung vãi ngôn từ. Chính vì cái kiểu "yêu thể thao" rất riêng này nên đôi lúc chẳng thể đoán nổi ông có máu bóng đá hay không.
"Tôi không thích nói nhiều mà muốn khẳng định bằng việc làm", bầu Hiển tâm sự với VnExpress.net. Nếu để tự nói về mình, ông chỉ gói gọn một câu rằng đơn giản rằng: "Tôi là người may mắn và thành công đạt được có sự trợ giúp tới 70% của ông Trời. Vì lẽ này mà tôi không cho phép mình dừng lại. Bởi nếu dừng lại tức là tôi đã phụ công trời đất, phụ công những gì cuộc đời dành cho tôi", bầu Hiển nói.
![]() |
Khát vọng của bầu Hiển là có tên trong danh sách tỷ phú đôla của thế giới. Ảnh: Hoàng Hà. |
Theo ông, đã là kinh doanh, ai cũng mong đạt được mục đích, mà đích cuối cùng là lợi nhuận. Tuy nhiên, có một cái khác lớn lao hơn, vượt trên tiền bạc và danh vọng mà nhiều doanh nhân cũng như ông đang phấn đấu không ngừng nghỉ, đó là giá trị thương hiệu, uy tín xã hội và niềm đam mê cá nhân.
Ở cái tuổi đã đạt được độ chín về trải nghiệm, bầu Hiển được đánh giá là một trong số doanh nhân thành công. Thế nhưng, có một bầu Hiển khác mà ít ai biết đến đó là những thương vụ thất bại, đang đứng ở ngưỡng thành công lại ngập sâu trong nợ nần. Chính từ những thất bại này đã hình thành trong ông một quan điểm sống, quyết tâm thực hiện mục tiêu. Và cũng từ đây, bầu Hiển đã tìm cho mình một triết lý kinh doanh duy nhất là "cẩn thận không bao giờ thừa". Có nghĩa là không có ai đứng mãi ở vị trí dẫn đầu, và thành công không bao giờ là vĩnh cửu, nếu không có sự chuẩn bị, thất bại có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình công chức mẫu mực ở Hà Nội, sau khi tốt nghiệp ĐH Tổng hợp khoa Vật lý, kỹ sư Đỗ Quang Hiển về công tác tại Đài Phát Thanh Hà Nội. Chưa đầy 3 năm sau, ông chuyển sang làm tại Công ty Điện tử Hà Nội rồi Viện nghiên cứu Công nghệ Quốc gia. Cứ ngỡ kỹ sư Đỗ Quang Hiển sẽ gắn cả đời mình với công việc ở Viện nghiên cứu vì ở đó môi trường làm việc phù hợp với năng lực và hoàn cảnh gia đình. Tình cờ do cơ quan phân công, ông có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với thị trường, và rồi ngẫu nhiên, sự sôi động trong kinh doanh đã cuốn hút ông và trở thành niềm đam mê thấm trong từng huyết quản từ lúc nào không rõ.
Có tín với bạn hàng, lại được đối tác và bạn bè khích lệ, ông quyết định “dấn thân” vào kinh doanh, mạnh dạn nhận làm đại lý độc quyền cho một số hãng điện tử nổi tiếng như Panasonic, National, Mitsubishi… Những năm làm đại lý cho các hãng điện tử tên tuổi, Đỗ Quang Hiển đã tích lũy cho mình được những kinh nghiệm về thị trường và một hệ thống phân phối rộng khắp mà nhiều người mơ ước. Năm 1993 được coi là bước ngoặt lớn trong cuộc đời, ông xin ra khỏi biên chế nhà nước, thành lập Công ty TNHH T&T hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh các mặt hàng điện tử, điện lạnh, điện gia dụng. Bằng sự nhanh nhạy, linh hoạt, chịu khó tìm tòi học hỏi và những trải nghiệm trong thực tế, kỹ sư Đỗ Quang Hiển đã từng bước đưa T&T vượt qua khó khăn của những ngày đầu khởi nghiệp và khẳng định uy tín trên thương trường.
Hồi những năm 1995-1996, sản phẩm của ông được xếp vào diện bán chạy trên thị trường với doanh thu rất cao, thị phần tiêu thụ ngày càng được mở rộng. Ông như người đi trong mơ với kết quả đạt được khá ấn tượng này. Thừa thắng xông lên, bầu Hiển đặt lệnh đưa hàng về chất đầy kho. Thế nhưng thương vụ năm ấy, bầu Hiển tổn thất nặng do bị hàng lậu cạnh tranh. Số nợ lên tới gần 40 tỷ đồng, gồm 7 tỷ đồng tiền thuế nhập khẩu và trên 30 tỷ đồng nằm trong kho. Ngân hàng thúc nợ, cơ quan thuế phát lệnh truy thu, bầu Hiển rơi vào tình cảnh khó khăn chưa từng có. Lúc bấy giờ, ông mới giật mình nhìn lại xung quanh chẳng có ai gánh hộ món nợ và có thể chung tay cùng ông vượt qua giai đoạn khó khăn.
"Tôi đã nói với anh em rằng, tôi là kẻ thất bại và khó khăn mình tôi sẽ gánh chịu chịu. Tôi đã quyết định sai, tôi sẽ là người đứng ra gánh vác trách nhiệm", ông nói. Bầu Hiển đau đớn quyết định "giải phóng" nhân viên giỏi sang làm việc ở đơn vị khác vì không muốn họ vì mình mà lỡ dở sự nghiệp. Những người còn lại ông động viên cùng mình vượt qua khó khăn và ông hứa sẽ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho họ và gia đình. Lời hứa của ông đã mang lại giá trị, sau khoảng một năm lăn lộn ra thị trường, cùng bán hàng và chào sản phẩm ở khắp mọi nơi, bầu Hiển đã bước đầu "gỡ" được vốn. Lượng hàng tồn trong kho được giải phóng và ông cũng dần lấy lại được thị phần. "Quả là khi ấy tôi thấm thía được thế nào là nỗi cơ cực của kẻ bị thúc nợ", bầu Hiển tâm sự.
Cũng chính lúc khó khăn nhất, bầu Hiển hiểu rằng nếu chỉ kinh doanh thương mại thuần túy, làm đại lý cho nước ngoài, rủi ro cao và ông sẽ mãi chỉ là người phân phối sản phẩm, gia công và mượn thương hiệu của người khác. Chẳng có cái gì là của riêng ông và làm lên giá trị của chính mình.
Năm 1998, bầu Hiển quyết định đầu tư sang lĩnh vực lắp ráp xe máy. Khi quyết định chuyển hướng kinh doanh, ông nhận thấy xe máy là thị trường tiềm năng mà chưa có doanh nghiệp nào tham gia. Xe máy lúc bấy giờ cũng là phương tiện mơ ước của nhiều người. Nghĩ là làm, năm 2000, nhà máy sản xuất động cơ xe máy T&T Hưng Yên ra đời với số vốn đầu tư khoảng 20 triệu USD. Đến năm 2003 chiếc xe máy đầu tiên mang thương hiệu Việt ra mắt thị trường, với tỷ lệ nội địa hóa đến 90% và giá rẻ bằng 1/3 sản phẩm ngoại.
Xe máy mang hiệu T&T ra đời đã nhanh chóng nhận được sự cảm tình của và trở thành phương tiện phục vụ đời sống của người dân VN tại các vùng nông thôn. T&T cũng tiến hành xuất khẩu sang các nước Nam Mỹ và châu Phi đạt kim ngạch 5 triệu USD mỗi năm. T&T còn có thế mạnh trong các sản phẩm khác như điều hòa không khí Kamikaze, điện thoại di động Bird. Điều hòa Kamikake (Gió thần) hiện đang chiếm 20% thị phần miền Bắc và phát triển tại Nam Bộ và miền Trung.
Năm 2005, T&T chuyển sang lĩnh vực tài chính theo đúng mô hình phát triển của một tập đoàn như góp vốn đầu tư ngân hàng, công ty chứng khoán, Quỹ đầu tư, Bảo hiểm, mở công ty bất động sản.
Khi sự nghiệp kinh doanh đã đạt được độ chín, ông mới quyết định theo đuổi niềm đam mê từ nhỏ của mình ở bộ môn bóng đá. Ông đặt tham vọng xây dựng một nền công nghiệp bóng đá tại Việt Nam.
Ông sôi nổi nói về lần gặp cầu thủ bóng đá đội Thể Công - Triệu Quang Hà cách đây 5 năm. Hai người rất tâm đắc với ý tưởng thành lập một câu lạc bộ bóng đá. Ít lâu sau, Câu lạc bộ bóng đá mang tên T&T VN ra đời đi từ hạng 3 rồi dần dần lên hạng nhất rồi lọt vào V-League. Khi ấy, nhiều người hỏi ông sao không mua ngay một câu lạc bộ bóng đá danh tiếng, ông chỉ mỉm cười. Không có cái gì vinh quang hơn bằng chính công sức mà mình bỏ ra.
Sau gần 5 năm nhảy sang lĩnh vực bóng đá, số tiền bầu Hiển đã chi mà chưa thu lại được một đồng nào đã lên tới 70 tỷ đồng. Mỗi lần xuất chi, kế toán sốt ruột lắm. "Và tôi cũng hiểu rằng, nếu không có niềm đam mê thì không làm được bóng đá. Hay nói cách khác là làm bóng đá khó hơn kinh doanh. Bạn biết không, tôi đã được hưởng niềm vui chiến thắng của một nhà vô định. Cảm giác khó tả và không thể mua được bằng tiền và chẳng kém gì khi mình gặt hái được thành công trong kinh doanh", ông nói.
Theo ông, trong kinh doanh cũng như bóng đá nếu muốn thành công, ngoài niềm đam mê còn phải có mục tiêu rõ ràng. Bầu Hiển thừa nhận trong bóng đá, ông mới thành công một nửa. Khi nào bóng đá chưa mang lại nguồn thu tức là chưa thành công. Và giống như bao doanh nhân khác, bầu Hiển cũng có một khát vọng là ước mơ trở thành người Việt Nam đầu tiên lọt vào danh sách tỷ phú của thế giới. "Đây là khát vọng và niềm tự hào dân tộc mà tôi tin bất cứ doanh nhân nào cũng mong muốn đạt được và đang phấn đấu để thành công", bầu Hiển nói.
Tập đoàn T&T được thành lập năm 1993, hoạt động đa lĩnh vực, đa ngành nghề: Với hơn 10 công ty thành viên, 3 công ty liên doanh với nước ngoài, 3 nhà máy sản xuất với qui mô lớn và hiện đại, với hơn 20 dự án đầu tư tài chính tại các ngân hàng, công ty chứng khoán và bảo hiểm. Ngành nghề kinh doanh chính: Sản xuất phụ tùng, lắp ráp, sửa chữa xe hai bánh và ba bánh gắn máy; Kinh doanh, môi giới, đầu tư các dự án về Bất động sản; Thăm dò, khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản; Xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, công cộng, giao thông thủy lợi; Đầu tư tài chính; Kinh doanh, môi giới, đầu tư Bất động sản. Sản xuất các loại ống nhựa công nghiệp cao cấp...
Từ một doanh nghiệp kinh doanh thương mại, sản xuất, lắp ráp xe máy, T&T đã trở thành một tập đoàn kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực như công nghiệp, tài chính, bất động sản, thể thao với nguồn vốn trên 5.000 tỷ đồng và hàng nghìn lao động. Đánh giá của Công ty Vietnam Report thì tập đoàn T&T hiện xếp thứ 32 trong Top 500 DN lớn nhất VN.